Ở Việt
Cũng không ai không biết đến uy danh “ngài” rùa ở Hồ Hoàn Kiếm, hay “ngài” rùa Vĩnh Lăng đội tấm bia do chính tay Nguyễn Trãi chấp bút năm 1433, khi Lê Thái Tổ qua đời... tuy nhiên, xét về tước vị cho các “ngài” rùa trên đất Việt từ xưa đến nay, duy chỉ có một “ngài” rùa được phong tước Vương. Đó chính là “ngài” rùa ở TT. Phú Lộc (tỉnh Thừa Thiên-Huế).
Rùa được phong vương duy nhất ở Việt Nam?
Ở thị trấn Phú Lộc có hai địa danh đặc biệt gắn với hình tượng linh vật thứ ba trong tứ linh “Long – Ly – Quy – Phụng”. Nếu như xóm Quy Thạch gắn liền với “ngài”. Rùa đá tự nhiên, được xem là một trong hai linh vật trấn yểm vùng đất này. Thì tên gọi xóm Rùa lại gắn với số phận long đong của một ngài rùa được chạm khắc bằng loại đá Thanh, độc đáo hơn trên đỉnh đầu của "cụ" rùa đá khắc độc nhất một chữ Vương.
Anh Nguyễn Tiến Vinh (Phòng VH – TT huyện Phú Lộc) cho biết: “Rùa đá có chiều dài 1,7m, rộng 1,2m, cao 0,5m ước chừng nặng 3 tạ, được tạc từ đá Thanh nguyên khối. Các họa tiết được tạo rất cầu kỳ, chi tiết khá rõ ràng như mắt, lằn ở cổ, lằn ở lưng, sống lưng, tai, mũi... Trên lưng có ô lõm lớn hình chữ nhật kích cỡ 30 x 24cm, có khả năng là điểm để đặt bia đá nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm thấy”. Theo anh Vinh, rùa đá ban đầu có lẽ nằm ở khu vườn của nhà bác Ga (trú khu vực 4, Phú Lộc). Bởi vì đây chính là nơi đã tìm thấy ba chân trụ bằng đá còn khá nguyên vẹn.
Dựa vào kích thước và sự phân bố của ba trụ bằng đá thì có thể thấy đây chính là những chiếc cột để dựng mái che rùa đá. Cụ Ga, chủ nhân khu vườn cho biết: “Vợ chồng tui bắt đầu mua lại ngôi nhà năm 1989, khi dọn về thì đã có sẵn hai chân cột trụ đá trong vườn. Một năm trước, người con trong gia đình làm vườn tìm ra thêm một cột trụ đá giống như hai cột trụ trước. Tôi đoán còn thêm một trụ đá nữa nhưng nó bị vùi lấp sâu trong lòng đất nên chưa tìm ra thôi...”.
Một trong những bậc cao niên nhất làng là cụ Nguyễn Văn Đằng (86 tuổi) còn cho biết thêm: “Ba cái chân cột trụ đá mới tìm thấy cỡ vài chục năm trở lại đây thôi chứ cụ rùa thì đã tồn tại hàng trăm năm nay. Từ lúc tóc tôi còn để chỏm, người làng đã nhìn thấy ngài rùa giữa một vùng bàu đìa, ao trũng hoang vu. Hàng ngày, qua lại trên đường, tôi thấy “ngài” ghếch đầu nổi thân mình, oai phong cạnh một bờ ruộng lúa”. Mặc dù, biết là linh vật của làng, nhưng hồi ấy trong làng không có ai dám di chuyển “ngài”, vì lời đồn, hễ ai đụng vào “ngài” là ngay lập tức gặp tai ương.
Chuyện rằng, có đôi vợ chồng nọ, vì biết “ngài” linh thiêng, nên muốn đưa về nhà làm của riêng. Liền tranh thủ lúc nửa đêm khênh “ngài” rùa về nhà, nhưng không thể xê dịch nổi một ly. Ngày hôm sau, ông chồng lăn ra chết bất đắc kỳ tử. Cho đến giờ, người dân xóm Rùa vẫn truyền tai nhau câu chuyện vào thời Pháp thuộc, giặc Pháp xua quân, đưa cả một đại đội xe tăng, bọc thép đến cẩu “ngài” rùa đi nơi khác nhưng không may cho chúng là cả ba lần nối cáp để giật thì cả lần cáp đứt. Lần cuối chúng lệnh dùng xe tăng húc thẳng vào “ngài” thì chiếc xe này bị lật nhào, máy khởi động mấy ngày trời cũng chẳng nổ, bất lực chúng đành hậm hực kéo nhau về”, cụ Đằng tiết lộ.
Tuy nhiên, điều khiến chúng tôi thắc mắc là chỗ phát hiện các chân trụ bằng đá ở khu vườn nhà cụ Ga cho đến miếu thờ “ngài” hiện tại cách nhau đến hơn 200m. Trong khi theo người dân thì “ngài” rùa vô cùng linh thiêng, không ai có thể di chuyển được, thậm chí xe tăng cũng phải lắc đầu chào thua.
Giải mã lịch sử
Cách đây hơn 10 năm, cán bộ Bảo tàng Tổng hợp tinh Thừa Thiên-Huế về nghiên cứu rùa đá cổ, và có đặt vấn đề chuyển di vật về nơi trưng bày, nhưng người dân địa phương không đồng ý. Nguyên do vì dân xóm Rùa cho rằng, “ngài” rùa là linh vật của cả làng bảo vệ dân làng khỏi tai ương, chướng khí. Nhà nước đem đi rồi lấy ai bảo vệ dân làng, lỡ may “ngài” trách phạt, tai ương giáng xuống vùng đất này, ai chịu trách nhiệm. Trước lý lẽ của người dân, đoàn cán bộ cũng đành ngậm tăm đi về”.
Đến năm 2010, một nhà hảo tâm tên Phước đã phát nguyện, hỗ trợ kinh phí xây dựng am thờ ổn định như ngày nay. Theo lời cụ Đằng thì trong ngày di chuyển “ngài”, người dân làm lễ cúng rất linh đình và huy động hàng trăm trai tráng trong xóm, hì hục suốt một ngày dài mới có thể di chuyển “ngài” rùa. Người dân ở đây tin tưởng rằng, khi chuyển được “ngài” rùa lên vị trí mới, “cao ráo” và phong thủy tốt hơn, “ngài” sẽ không quấy phá và luôn bảo vệ dân làng.
Tuy nhiên, điều không ai ngờ tới là sau khi lập miếu thờ, tai ương đã giáng xuống mảnh đất này. Người dân xóm Rùa cho biết, nhà hảo tâm này là một doanh nhân trẻ thành đạt, ông là người gốc Cầu Hai (Phú Lộc) nhưng lập nghiệp tại miền Nam. Ngoài khối tài sản kếch xù, đại gia này còn có một cô vợ xinh đẹp chẳng khác gì hoa hậu. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà sau khi lập miếu thờ “ngài”, hai vợ chồng đang sống hạnh phúc đột nhiên kéo nhau ra tòa ly dị. Điều đặc biệt là người vợ quyết định ra đi tay trắng mà không lấy bất cứ tài sản gì. Cũng từ đó, việc làm ăn liên tiếp gặp trắc trở, thua lỗ triền miên.
Bẵng đi một thời gian, người đàn ông này mới về thăm quê, rồi đem chuyện này nói với các bậc cao lão trong làng. Nghe xong, các cụ ngẫm nghĩ một hồi mới chợt nhớ đến tấm biển hiệu ở miếu “ngài”. Thứ nhất, biển đề miếu thờ Thần Kim Quy là đã sai về mặt lịch sử. Thứ hai, tấm biển hiệu lại ghi tên người phụng lập miếu. Nên bỏ đi thì tự khắc tai ương sẽ được giải trừ?
Nghe lời chỉ dạy của các bậc cao lão trong làng, ông này liền sắm mâm lễ đích thân tới thắp nhang cáo lỗi với “ngài” sau đó xin phép “cất” tấm biển hiệu trên đi. Trùng hợp kỳ lạ, từ đó công việc làm ăn bắt đầu trở nên khởi sắc, khấm khá trở lại. Nghe nói, người vợ ít lâu sau cũng trở về chung sống hòa thuận như xưa... Tất nhiên câu chuyện trên mang nhiều màu sắc liêu trai có chăng chỉ là sự ngẫu nhiên trong cuộc sống.
Rùa đá Phú Lộc của đền Tùng Giang? Theo nhà nghiên cứu Trần Viết Điền, rùa đá xóm rùa được tạc từ một tảng đá Thanh nguyên khối nên có khả năng hiện vật được tạc trước năm 1627 hoặc sau năm 1786. Trên đầu rùa đội bia có chữ “Vương”, chứng tỏ bia mà rùa đội ghi sự tích của một nhân thần được hoàng đế phong tước vương. ở Thừa Thiên-Huế, sau năm 1786 chỉ có hoàng đế Quang Trung, các hoàng đế triều Nguyễn, không thấy phong một vị nhân thần nào ở gần cửa Tư Khách tước vương. Trong khi đó, trước 1627 chỉ có các hoàng đế thời Lê sơ và Mạc. Vậy rùa đá phải được tạo tác vào thời Lê-Mạc. Thời Lê-Mạc không có một vị tước vương nào sống và làm việc ở Phú Lộc, ngoài Phi vận tướng quân Nguyễn Phục, trong đoàn quân thân chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1470 - 1471, bị trảm theo quân lệnh, sau đó được phong thần “Đông Hải đại vương”. Vậy nhiều khả năng chữ “Vương” trên đầu rùa đá, đội bia ghi công trạng của Đông Hải đại vương Nguyễn Phục. |
Theo doisongphapluat.com
Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa, có một vị thần gánh đất để ngăn sông đắp núi. Một hôm vị thần đó đang gánh đất thì bỗng nhiên đòn gánh bị gãy làm hai, nên bây giờ đã để lại hai quả đất khổng lồ khoảng cách nhau hơn một km đó chính là núi Linh thái và núi Túy Vân ngày nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.
Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...
Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.
Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam.
Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía
Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.
Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.
Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.
Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...
Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.
Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.
Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).
Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.
Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.
Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...
Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.
Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh cũng là lúc ở Việt Nam, các thế lực bước vào một cuộc chạy đua nước rút để nắm quyền định đoạt tương lai nước này sau 80 năm là thuộc địa Pháp.
Khải Định đã tìm được một thế đất dường như “sinh ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”…