BĂNG TÂM
Sinh sống trong suốt chiều dài thế kỷ XX, Băng Tâm là một khuôn mặt tiêu biểu của văn học Trung Quốc, ảnh hưởng lớn đến các nhà văn thời đại bà, với nhiều thể loại khác nhau, kể cả văn học dành cho tuổi trẻ. Tên thật là Tạ Uyển Oánh (谢婉莹), bà lấy bút danh là Băng Tâm (冰心) với mong muốn giữ một lý tưởng thanh khiết, mượn từ ý thơ của Vương Xương Linh: Tâm hồn như một khối băng trong một chậu ngọc.
Nữ sĩ Băng Tâm - Ảnh: internet
![]() |
Tìm về ngôi nhà cổ "dưới gốc cây đại thụ trĩu quả vàng" - Ảnh: http://www.chinese-shortstories.com/Litterature_pour_la_jeunesse_Bing_Xin_la_petite_lanterne.htm (Google dịch) |
![]() |
Truyện ngắn nổi tiếng nhất và tiêu biểu nhất của Băng Tâm là “Chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quýt”, một biểu tượng của bút pháp và lý tưởng triết học của bà. Truyện được đăng vào “Trung Quốc thiếu niên báo” số ra ngày 19/1/1957. Câu chuyện xảy ra vào mùa xuân 1945 nhưng được viết mười năm sau. Những kỷ niệm cảm động, hình ảnh một thành phố xa xưa, những gốc cây, con đường lát gạch, những quả quýt… và hình ảnh người kể chuyện tình cờ bắt gặp được tường thuật lại sau 10 năm. Những kỷ niệm này vẫn được khắc sâu trong tâm trí của Băng Tâm và trở nên sống động, như cảm xúc ngày nào khi ra đi, bỏ lại đứa bé bên giường bệnh của người mẹ. Truyện được tái bản nhiều lần và năm 2012, được chuyển thành truyện tranh (liên hoàn hoạ).
Bà mất ngày 28/2/1999, được xưng tụng là “Thế kỷ lão nhân” (世纪老人).
Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu
Chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quýt
Một buổi chiều trước hôm Lễ hội Mùa xuân, tôi đến một ngôi làng ở ngoại ô Trùng Khánh thăm một người bạn đang cư ngụ tại khu công đường. Sau khi leo lên một cầu thang tối tăm, dốc đứng, chật hẹp, tôi bước vào căn phòng đầu tiên, nơi có một chiếc bàn vuông, vài chiếc ghế tre đặt trước bức tường với chiếc điện thoại móc bên trên. Đi vào thêm nữa, tôi đến căn phòng bạn tôi ở, chỉ có tấm màn vải ngăn cách với phòng kia. Bạn không có nhà, cô ấy để lại mấy chữ trên bàn, cạnh cửa sổ, dặn tôi chờ vì bạn có việc đột xuất phải ra ngoài.
Tôi ngồi xuống trước cái bàn, lấy tờ báo trên đó ra đọc, bỗng nghe có tiếng động trên sàn nhà rồi như có ai đang xê dịch mấy cái ghế. Tôi vén màn lên và thấy một bé gái khoảng tám, chín tuổi, mặt hốc hác, xanh xao, môi tái nhợt vì lạnh, quần áo cũ rách bươm, chân mang dép rơm. Nó leo lên chiếc ghế tre định nhấc điện thoại lên rồi sợ hãi khi trông thấy tôi và rụt tay lại. Tôi hỏi: “Cháu muốn gọi điện thoại phải không?” Nhảy từ trên ghế xuống nó gật đầu: “Cháu muốn gọi đến bệnh viện xx, gặp bác sĩ Hồ, mẹ cháu vừa khạc ra máu. Tôi hỏi cháu có biết số điện thoại không. Cháu lắc đầu nói không. Tôi tìm trong sổ danh bạ đặt cạnh điện thoại và hỏi tiếp: “Khi cô gặp bác sĩ, cô sẽ mời bác sĩ đến gặp ai?” “Dạ cô chỉ cần nói nhờ bác sĩ đến nhà Vương Xuân Lâm thăm bệnh, bà ấy sẽ biết”.
Sau khi gọi được rồi, cô bé rối rít cám ơn tôi rồi quay gót như muốn đi ngay, tôi giữ cháu lại hỏi: “Cháu ở có xa đây không?” “Thưa không”, cháu đưa tay chỉ phía cửa sổ, “đằng kia, trong núi, dưới cái cây to trĩu quả vàng, cháu về đến trong một thoáng thôi.” Nói xong, nó đi xuống cầu thang, bước chân vang trên những bậc cấp.
Tôi trở vào phòng, đọc tiếp tờ báo, rồi mở cuốn thơ Đường luật đọc được nửa tập, trời tối dần, bạn tôi vẫn chưa về. Tôi đứng dậy và để khuây khỏa, tôi tới gần cửa sổ nhìn về phía ngọn núi đang mờ dần trong sương, tôi thoáng thấy căn nhà nhỏ trước gốc cây có quả vàng. Bỗng tôi chợt có ý muốn đi thăm cô bé và bà mẹ đang đau ốm. Bên dưới cầu thang, tôi mua vài quả quýt to chín đỏ, bỏ vào túi xách rồi men theo con đường nhỏ ngoằn ngoèo đầy gạch lỗ chỗ, tôi tiến về căn nhà nhỏ.
Tôi gõ nhẹ cửa và nghe tiếng bước chân, rồi cô bé ra mở cửa, há hốc mồm. Cô bé mỉm cười mời tôi vào. Bên trong chật hẹp tăm tối, bà mẹ nhắm mắt nằm dài trên chiếc giường gỗ kê sát tường, chừng như đang ngủ, phần trên tấm chăn dính đầy máu. Mặt bà quay vào tường, chỉ nhìn thấy được đầu tóc rối bù, sau búi tóc to thắt sau gáy. Cạnh cửa vào là cái lò than bên trên có cái nồi đất tỏa hơi. Cô bé mời tôi ngồi trên ghế trước bếp, nó ngồi xổm bên cạnh nhìn kỹ tôi. Tôi hỏi: “Bà bác sĩ tới chưa?”
“Dạ rồi, bà chích cho mẹ cháu một mũi, giờ này mẹ cháu đỡ hơn nhiều rồi.”
Rồi nó nói tiếp, như muốn trấn an tôi: “Cô đừng lo, sáng mai bà bác sĩ lại đến nữa.” “Mẹ cháu có ăn gì chưa?”, tôi hỏi, “trong nồi có gì vậy?” “Dạ khoai lang. Bữa ăn mừng năm mới của hai mẹ con đấy!” Tôi chợt nhớ ra những trái quýt mang theo, tôi lấy trong túi xách ra bỏ lên bàn cạnh chiếc giường. Cô bé không nói gì, chỉ với tay lấy trái to nhất, lấy con dao nhỏ bóc một phần vỏ, rồi lấy hai tay nhào nắn nửa còn lại.
Tôi hỏi tiếp: “Trong nhà còn có ai khác nữa không?” “Hiện thời thì không còn ai nữa. Bố cháu không có ở nhà.” Cô bé vừa nói vừa nhẹ nhàng bóc từng góc vỏ quả quýt và đặt bên cạnh chiếc gối của mẹ.
Trong cái bếp nhỏ lửa vẫn còn cháy nhưng ánh lửa lịm dần, bên ngoài trời tối đen. Tôi định đứng dậy ra về thì cô bé giữ lại. Rồi với bàn tay khéo léo, nó lấy chỉ xâu vào cây kim và luồn sợi chỉ vào chiếc cốc bằng vỏ quả quýt trông giống như chiếc rổ nhỏ, nó buộc những sợi chỉ vào đầu một que tre, xong lấy trên bờ cửa sổ một mẩu nến, nó thắp lên đặt vào giữa vỏ quả quýt đưa hết cho tôi và nói: “Đêm tối rồi, đường lại trơn, chiếc đèn lồng này sẽ soi cho cô trên đường từ đây đi xuống.”
![]() |
Minh họa: NHÍM |
Tôi cầm và ngắm nghía chiếc đèn lồng nhỏ, tôi cám ơn cô bé khi nó tiễn tôi ra cửa, không biết nói lời gì thì nó lại nói như để tôi yên lòng: “Bố cháu sẽ về, chắc chắn rồi. Và mẹ cháu sẽ bớt, tất nhiên.” Nó lấy tay vẽ một vòng tròn trước mặt. “Mọi người sẽ ổn cả thôi.” Hẳn là cô bé muốn gom cả tôi vào trong mọi người đó. Tôi ra về, mắt ướt đẫm.
Tay cầm chiếc đèn lồng thần kỳ, tôi lần mò xuống núi trong đêm đen, trên con đường ẩm ướt. Ánh sáng đỏ nhạt từ chiếc lồng đèn con không đủ soi xa được nhưng vẻ trầm tĩnh, can đảm và lạc quan của con bé khiến tôi lên tinh thần, tưởng như thấy ánh sáng đang soi xa ngút ngàn.
![]() |
Bạn tôi đã về nhà, nhìn thấy tôi với chiếc đèn lồng bằng vỏ quýt, cô hỏi tôi đi đâu về. “Từ nhà Vương Xuân Lâm”, tôi đáp. Cô bạn ngạc nhiên nói: “Vương Xuân Lâm, ông thợ mộc. Nhưng làm sao bạn biết ông ta? Năm ngoái, nơi trường y ở thung lũng bên dưới, nhiều sinh viên cộng sản bị bắt, sau đó Vương Xuân Lâm biết mất, nghe nói ông ta mang thư cho những sinh viên kia.”
Ngay đêm đó, tôi đã đi khỏi ngôi làng trong núi kia và không có tin tức gì về hai mẹ con cô bé nữa. Nhưng từ dạo đó, cứ mỗi dịp năm mới, tôi lại nhớ đến chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quýt. Mười hai năm đã qua, cha cô bé hẳn đã về nhà từ lâu rồi, mẹ cô bé hẳn đã khỏi rồi, phải vậy thôi. Bởi lẽ, “tất cả mọi người” đều ổn cả!
B.T
(TCSH45SDB/06-2022)
----------------------------------
Nguồn:http://www.chinese-shortstories.com/Litterature_ pour_la_jeunesse_Bing_Xin_la_petite_lanterne.htm
CORMAC MCCARTHY
YAMAMOTO SHUGORO
VIRGINIA WOOLF
Rivka Galchen là nhà văn, biên tập viên tờ The New Yorker, với nhiều đóng góp về truyện ngắn và tiểu luận phi hư cấu cho tạp chí này từ năm 2008. Nữ nhà văn thường viết về khoa học và y học.
Ray Bradbury (1920 - 2012) là nhà văn lừng danh của Mỹ, tham gia văn đàn và thế giới điện ảnh sôi nổi trong suốt hơn 7 thập kỷ. Ông đã viết 27 tiểu thuyết và hơn 600 truyện ngắn. Truyện ngắn The Veldt (Thảo nguyên châu Phi) là một tiên đoán về mặt trái của công nghệ đang phần nào chạy theo những nhu cầu phi nhân bản của con người.
JACK LONDON
Ngày đã trở nên lạnh lẽo và u ám, rất lạnh và rất u ám khi người đàn ông rẽ sang lối khác từ đường mòn Yukon và đi lên một bờ đất cao nơi có một đường mòn mờ mờ, ít người qua lại dẫn về hướng đông, xuyên qua rừng cây vân sam với những thân cây chắc khỏe.
SHIMAZAKI TOSON
Hirabayashi Hatsunosuke (1892 - 1931), sinh ra tại làng Fukada, quận Taken, Tokyo, tốt nghiệp Khoa tiếng Anh Đại học Waseda. Ông hoạt động như một nhà lý luận của phong trào vô sản thời kỳ đầu.
TED HUGHES
ARESS MOHAMED
Trong lòng con thuyền đang lênh đênh trên mặt biển là 12 người, 7 đàn ông, 4 phụ nữ và 1 đứa trẻ. Đứa bé hình như đang thiếp đi trong vòng tay mẹ nó. Tính đến nay, con thuyền đã trôi được bốn ngày.
MACARIO D. TIU (Philippines)
Hồi đó tôi chỉ có 3 tuổi nhưng tôi nhớ rất rõ đám cưới của anh Peter và chị Linda. Tôi nhớ nhất là được đùa giỡn trên chăn gối tinh tươm của chiếc giường dành cho đôi tân lang và tân giai nhân. Tôi sau đó mới biết là đùa giỡn như vậy sẽ giúp cho họ mau có con trai đầu lòng. Tôi được chọn để đùa giỡn vì tôi tráng kiện và mập mạp.
INUTA SHIGERU
ROGER DEAN KISER (Hoa Kỳ)
Tôi bước vào nhà hàng Huddle House ở Brunswick, Georgia và ngồi ngay quầy vì hết sạch chỗ. Tôi cầm thực đơn lên và bắt đầu xem những món ăn khác nhau và cố quyết định sẽ ăn sáng hay nhịn tới trưa luôn.
IVAN BUNIN
Ivan Bunin (1870 - 1953), nhà văn Nga đầu tiên được trao giải Nobel, năm 1933. Ông nổi tiếng với ‘một nghệ thuật nghiêm cẩn’, mà với nó ông ‘tiếp tục những truyền thống cổ điển Nga trong sáng tác văn thơ’.
OKAMOTO KIDO
KATHERINE MANSFIELD
L. CHOIJILSUREN (Mông Cổ)
Vụ mùa năm đó bội thu khác thường. Mùa thu dài lê thê và chim chóc dường như không muốn rời tổ. Chúng bay theo hình cánh cung trên cánh đồng bao la từ sáng đến tối, như muốn chào đón người từ mặt trận trở về.
ISABEL MILES (Anh)
UNNO JUZA
NADINE GORDIMER