Chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quýt

10:13 20/07/2022

BĂNG TÂM

Sinh sống trong suốt chiều dài thế kỷ XX, Băng Tâm là một khuôn mặt tiêu biểu của văn học Trung Quốc, ảnh hưởng lớn đến các nhà văn thời đại bà, với nhiều thể loại khác nhau, kể cả văn học dành cho tuổi trẻ. Tên thật là Tạ Uyển Oánh (谢婉莹), bà lấy bút danh là Băng Tâm (冰心) với mong muốn giữ một lý tưởng thanh khiết, mượn từ ý thơ của Vương Xương Linh: Tâm hồn như một khối băng trong một chậu ngọc.

Nữ sĩ Băng Tâm - Ảnh: internet

Tìm về ngôi nhà cổ "dưới gốc cây đại thụ trĩu quả vàng" - Ảnh: http://www.chinese-shortstories.com/Litterature_pour_la_jeunesse_Bing_Xin_la_petite_lanterne.htm (Google dịch)

 

Truyện ngắn nổi tiếng nhất và tiêu biểu nhất của Băng Tâm là “Chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quýt”, một biểu tượng của bút pháp và lý tưởng triết học của bà. Truyện được đăng vào “Trung Quốc thiếu niên báo” số ra ngày 19/1/1957. Câu chuyện xảy ra vào mùa xuân 1945 nhưng được viết mười năm sau. Những kỷ niệm cảm động, hình ảnh một thành phố xa xưa, những gốc cây, con đường lát gạch, những quả quýt… và hình ảnh người kể chuyện tình cờ bắt gặp được tường thuật lại sau 10 năm. Những kỷ niệm này vẫn được khắc sâu trong tâm trí của Băng Tâm và trở nên sống động, như cảm xúc ngày nào khi ra đi, bỏ lại đứa bé bên giường bệnh của người mẹ. Truyện được tái bản nhiều lần và năm 2012, được chuyển thành truyện tranh (liên hoàn hoạ).

Bà mất ngày 28/2/1999, được xưng tụng là “Thế kỷ lão nhân” (世纪老人).

Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu


Chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quýt

Một buổi chiều trước hôm Lễ hội Mùa xuân, tôi đến một ngôi làng ở ngoại ô Trùng Khánh thăm một người bạn đang cư ngụ tại khu công đường. Sau khi leo lên một cầu thang tối tăm, dốc đứng, chật hẹp, tôi bước vào căn phòng đầu tiên, nơi có một chiếc bàn vuông, vài chiếc ghế tre đặt trước bức tường với chiếc điện thoại móc bên trên. Đi vào thêm nữa, tôi đến căn phòng bạn tôi ở, chỉ có tấm màn vải ngăn cách với phòng kia. Bạn không có nhà, cô ấy để lại mấy chữ trên bàn, cạnh cửa sổ, dặn tôi chờ vì bạn có việc đột xuất phải ra ngoài.

Tôi ngồi xuống trước cái bàn, lấy tờ báo trên đó ra đọc, bỗng nghe có tiếng động trên sàn nhà rồi như có ai đang xê dịch mấy cái ghế. Tôi vén màn lên và thấy một bé gái khoảng tám, chín tuổi, mặt hốc hác, xanh xao, môi tái nhợt vì lạnh, quần áo cũ rách bươm, chân mang dép rơm. Nó leo lên chiếc ghế tre định nhấc điện thoại lên rồi sợ hãi khi trông thấy tôi và rụt tay lại. Tôi hỏi: “Cháu muốn gọi điện thoại phải không?” Nhảy từ trên ghế xuống nó gật đầu: “Cháu muốn gọi đến bệnh viện xx, gặp bác sĩ Hồ, mẹ cháu vừa khạc ra máu. Tôi hỏi cháu có biết số điện thoại không. Cháu lắc đầu nói không. Tôi tìm trong sổ danh bạ đặt cạnh điện thoại và hỏi tiếp: “Khi cô gặp bác sĩ, cô sẽ mời bác sĩ đến gặp ai?” “Dạ cô chỉ cần nói nhờ bác sĩ đến nhà Vương Xuân Lâm thăm bệnh, bà ấy sẽ biết”.

Sau khi gọi được rồi, cô bé rối rít cám ơn tôi rồi quay gót như muốn đi ngay, tôi giữ cháu lại hỏi: “Cháu ở có xa đây không?” “Thưa không”, cháu đưa tay chỉ phía cửa sổ, “đằng kia, trong núi, dưới cái cây to trĩu quả vàng, cháu về đến trong một thoáng thôi.” Nói xong, nó đi xuống cầu thang, bước chân vang trên những bậc cấp.

Tôi trở vào phòng, đọc tiếp tờ báo, rồi mở cuốn thơ Đường luật đọc được nửa tập, trời tối dần, bạn tôi vẫn chưa về. Tôi đứng dậy và để khuây khỏa, tôi tới gần cửa sổ nhìn về phía ngọn núi đang mờ dần trong sương, tôi thoáng thấy căn nhà nhỏ trước gốc cây có quả vàng. Bỗng tôi chợt có ý muốn đi thăm cô bé và bà mẹ đang đau ốm. Bên dưới cầu thang, tôi mua vài quả quýt to chín đỏ, bỏ vào túi xách rồi men theo con đường nhỏ ngoằn ngoèo đầy gạch lỗ chỗ, tôi tiến về căn nhà nhỏ.

Tôi gõ nhẹ cửa và nghe tiếng bước chân, rồi cô bé ra mở cửa, há hốc mồm. Cô bé mỉm cười mời tôi vào. Bên trong chật hẹp tăm tối, bà mẹ nhắm mắt nằm dài trên chiếc giường gỗ kê sát tường, chừng như đang ngủ, phần trên tấm chăn dính đầy máu. Mặt bà quay vào tường, chỉ nhìn thấy được đầu tóc rối bù, sau búi tóc to thắt sau gáy. Cạnh cửa vào là cái lò than bên trên có cái nồi đất tỏa hơi. Cô bé mời tôi ngồi trên ghế trước bếp, nó ngồi xổm bên cạnh nhìn kỹ tôi. Tôi hỏi: “Bà bác sĩ tới chưa?”

“Dạ rồi, bà chích cho mẹ cháu một mũi, giờ này mẹ cháu đỡ hơn nhiều rồi.”

Rồi nó nói tiếp, như muốn trấn an tôi: “Cô đừng lo, sáng mai bà bác sĩ lại đến nữa.” “Mẹ cháu có ăn gì chưa?”, tôi hỏi, “trong nồi có gì vậy?” “Dạ khoai lang. Bữa ăn mừng năm mới của hai mẹ con đấy!” Tôi chợt nhớ ra những trái quýt mang theo, tôi lấy trong túi xách ra bỏ lên bàn cạnh chiếc giường. Cô bé không nói gì, chỉ với tay lấy trái to nhất, lấy con dao nhỏ bóc một phần vỏ, rồi lấy hai tay nhào nắn nửa còn lại.

Tôi hỏi tiếp: “Trong nhà còn có ai khác nữa không?” “Hiện thời thì không còn ai nữa. Bố cháu không có ở nhà.” Cô bé vừa nói vừa nhẹ nhàng bóc từng góc vỏ quả quýt và đặt bên cạnh chiếc gối của mẹ.

Trong cái bếp nhỏ lửa vẫn còn cháy nhưng ánh lửa lịm dần, bên ngoài trời tối đen. Tôi định đứng dậy ra về thì cô bé giữ lại. Rồi với bàn tay khéo léo, nó lấy chỉ xâu vào cây kim và luồn sợi chỉ vào chiếc cốc bằng vỏ quả quýt trông giống như chiếc rổ nhỏ, nó buộc những sợi chỉ vào đầu một que tre, xong lấy trên bờ cửa sổ một mẩu nến, nó thắp lên đặt vào giữa vỏ quả quýt đưa hết cho tôi và nói: “Đêm tối rồi, đường lại trơn, chiếc đèn lồng này sẽ soi cho cô trên đường từ đây đi xuống.”

Minh họa: NHÍM

Tôi cầm và ngắm nghía chiếc đèn lồng nhỏ, tôi cám ơn cô bé khi nó tiễn tôi ra cửa, không biết nói lời gì thì nó lại nói như để tôi yên lòng: “Bố cháu sẽ về, chắc chắn rồi. Và mẹ cháu sẽ bớt, tất nhiên.” Nó lấy tay vẽ một vòng tròn trước mặt. “Mọi người sẽ ổn cả thôi.” Hẳn là cô bé muốn gom cả tôi vào trong mọi người đó. Tôi ra về, mắt ướt đẫm.

Tay cầm chiếc đèn lồng thần kỳ, tôi lần mò xuống núi trong đêm đen, trên con đường ẩm ướt. Ánh sáng đỏ nhạt từ chiếc lồng đèn con không đủ soi xa được nhưng vẻ trầm tĩnh, can đảm và lạc quan của con bé khiến tôi lên tinh thần, tưởng như thấy ánh sáng đang soi xa ngút ngàn.

Bạn tôi đã về nhà, nhìn thấy tôi với chiếc đèn lồng bằng vỏ quýt, cô hỏi tôi đi đâu về. “Từ nhà Vương Xuân Lâm”, tôi đáp. Cô bạn ngạc nhiên nói: “Vương Xuân Lâm, ông thợ mộc. Nhưng làm sao bạn biết ông ta? Năm ngoái, nơi trường y ở thung lũng bên dưới, nhiều sinh viên cộng sản bị bắt, sau đó Vương Xuân Lâm biết mất, nghe nói ông ta mang thư cho những sinh viên kia.”

Ngay đêm đó, tôi đã đi khỏi ngôi làng trong núi kia và không có tin tức gì về hai mẹ con cô bé nữa. Nhưng từ dạo đó, cứ mỗi dịp năm mới, tôi lại nhớ đến chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quýt. Mười hai năm đã qua, cha cô bé hẳn đã về nhà từ lâu rồi, mẹ cô bé hẳn đã khỏi rồi, phải vậy thôi. Bởi lẽ, “tất cả mọi người” đều ổn cả!

B.T
(TCSH45SDB/06-2022)

----------------------------------
Nguồn:http://www.chinese-shortstories.com/Litterature_ pour_la_jeunesse_Bing_Xin_la_petite_lanterne.htm

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.