HIỀN LÊ
Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.
Nghệ sĩ Hiroshi Sugimoto - Ảnh: internet
Là một nghệ sĩ theo trường phái tối giản (Minimalism), những tác phẩm nhiếp ảnh của ông không cầu kỳ, không tràn đầy màu sắc như nhiều tác giả khác, trong các tác phẩm của ông, chúng ta có thể thấy rõ sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, sự dung dị của bố cục, mang đậm hơi thở của thiền và của cuộc sống.
Những tác phẩm giản dị mà hàm súc
Hiroshi Sugimoto chụp những đề tài ông thích theo cách của riêng mình, những tác phẩm với chủ đề lặp lại, được chụp theo một phương pháp hoàn toàn giống nhau nhưng lại khác nhau đến từng chi tiết, là chuỗi những nhà hát với màn ảnh rực sáng, là mặt biển không một gợn sóng cắt ngang đường chân trời. Người xem quan sát được những đối tượng trong các bức ảnh một cách chân thật, nhuần nhị nhất, không có sự ảnh hưởng của các đối tượng xung quanh, hình ảnh con người được ghi nhận lại một cách lược giản nhất hoặc bị chối bỏ hoàn toàn cùng với các hoạt động náo nhiệt thường ngày, cảnh vật ở đây được ghi lại một cách đơn giản nhưng đầy cảm xúc.
Hiroshi Sugimoto chuyên chụp những tác phẩm đen trắng, không cầu kỳ, không rực rỡ màu sắc, trong cái sắc độ sáng tối ấy, đối tượng được nhìn với bản chất của chính nó. Sắc độ sáng tối trong những bức ảnh chụp tạo ra chất cảm lẫn nhau, từ đó tôn lên ánh sáng, bóng tối, đường nét, hình khối, phản ánh đối tượng một cách chính xác nhất, biểu cảm nhất mà không cần đến sự hỗ trợ của màu sắc.
![]() |
Theaters. U.A. Play House. 1978 |
Hơn một trăm rạp hát ở châu Âu và châu Mỹ được người nghệ sĩ ghi lại trong chuỗi ảnh Theaters(1) theo một bố cục thống nhất, đăng đối với màn ảnh mang sắc độ trắng thuần làm trung tâm, xung quanh được bao phủ bởi họa tiết xen kẽ đen trắng của những tấm vải che cánh gà, những hoa văn từ các tấm trang trí trần, những hình khối từ các đường gờ, các cột trong khối kiến trúc của nhà hát và những đốm sáng hắt lên lấp lánh từ các dãy ghế. Khán giả dường như không tồn tại, họ chỉ còn là những đốm sáng cực kỳ nhỏ hoặc hoàn toàn chìm trong bóng tối. Tất cả dường như bị chi phối bởi nguồn ánh sáng đặc trưng tỏa ra từ một nơi duy nhất làm trọng tâm trong bố cục bức ảnh - điểm sáng không có bất kỳ một chi tiết nào cả nhưng đó chính là nơi diễn ra những tình yêu, nỗi khổ đau hay niềm hạnh phúc mà những ai có mặt trong khán phòng đang dõi theo.
Chuỗi ảnh Seascapes(2) là sự chia cắt của ranh giới giữa trời và biển. Mặt biển được định hình bởi một đường thẳng cắt ngang ở đường chân trời, có khi rõ ràng, tách biệt thành hai mảng sáng và tối như ở tác phẩm “Caribbean Sea, Jamaica, 1980”, có khi là sự mờ nhạt khó nhận ra như ở tác phẩm “Baltic Sea, Rügen, 1996”, cũng có thể là sự hòa quyện không còn bất kỳ ranh giới nào như ở “Ligurian Sea, Saviore, 1993”. Đến với những bức ảnh, người xem bị cuốn vào sự tìm tòi, khám phá của bản thân đối với hình ảnh thu nhận được, là sự phân chia ranh giới? Là quá trình biến đổi của vật chất? Là sự cô đơn, lạnh lẽo hay chất chứa của cả một thế giới bao bọc lấy những điểm sống đang tồn tại ở trong đó?
![]() |
Seascapes. Carribean Sea, Jamaica, 1980 |
Là sự tĩnh lặng
Hiroshi Sugimoto đem đến cho người xem những hình ảnh mang đậm sắc thái của sự tĩnh lặng. Những bức ảnh của ông chụp có bố cục đơn giản, gần như đăng đối, là những nhà hát với các ghế lô, ánh sáng đen trắng xen kẽ dẫn đến phần màn ảnh sáng rực giữa trung tâm bức ảnh, là những cảnh biển không có tàu thuyền, không có hoạt động của con người, chỉ là sự phân chia giữa trời và biển, mênh mông mà yên bình. Khác với những cảnh biển thường được chụp với các hình ảnh của mây trời, những cánh chim cột sóng hay con người, cảnh biển của Hiroshi Sugimoto thường được chụp với một đường ngang thẳng tắp cắt chính giữa bức ảnh, chia bức ảnh thành hai mảng, cũng chính là ranh giới giữa trời và đất. Chính sự đơn giản mà cô đọng của bức ảnh mang lại cho người xem cảm xúc về sự thanh thản và vĩnh cửu một cách sâu sắc.
Trong chuỗi ảnh Architecutre, hình ảnh của tháp Effel (Eiffel Tower, 1998), của Trung tâm Thương mại Thế giới (World Trade Center, 1997) hay Nhà nguyện Đức Bà Du Haut (Chapel of Notre Dame Du Haut, 1998) được chụp theo bố cục đăng đối, hài hòa và tồn tại một cách mờ ảo trong thế giới của chủ nghĩa hiện đại. Trong cái tĩnh lặng ấy, sự vận động của không gian dường như hiện hữu một cách ổn định, đều đều và vô tận(3).
Sự cô đọng của thời gian
Nhiếp ảnh là sự nắm bắt khoảnh khắc, là sự đọng lại của thời gian ngay chính lúc bức ảnh được chụp lại. Hiroshi Sugimoto sử dụng kỹ thuật phơi sáng dài như là một cách để nắm bắt thời gian diễn tiến của đối tượng từ khi khởi đầu đến khi kết thúc. Bằng chiếc máy ảnh của mình, ông mở màn trập có khi đến hàng tiếng đồng hồ, khoảng thời gian dài đó được ông nắm bắt và diễn đạt vào trong khoảnh khắc khi người xem nhìn vào bức ảnh.
Hiroshi Sugimoto đã đặt câu hỏi rằng: “Giả sử như quay một bộ phim trong một khung hình duy nhất?(4) và ông tự trả lời câu hỏi của chính mình bằng cách bước vào rạp chiếu phim với một chiếc máy ảnh, khi bộ phim bắt đầu, ông mở màn trập ở khẩu độ lớn và đóng màn trập khi bộ phim kết thúc. Trong hơn bốn mươi năm, Theatres là chuỗi hình ảnh của hơn một trăm nhà hát ở châu Âu và châu
Mỹ được chụp theo một phương pháp như vậy, bằng sắc độ đen trắng và kỹ thuật phơi sáng dài, màn ảnh chiếu phim ở trung tâm bức ảnh không còn cất chứa hình ảnh của con người hay cảnh vật của bộ phim mà chỉ là một khung hình trắng xóa. Nơi đó phủ nhận tất thảy sự có mặt của khán giả trong rạp hát, phủ nhận những diễn tiến của nhân vật trong bộ phim được trình chiếu, chỉ còn lại sự cô đọng của thời gian trong một không gian mang đậm tính chất thiền định.
In Praise of Shadow không chỉ đơn giản là chụp những ngọn lửa, Hiroshi Sugimoto ghi lại “cuộc đời của một ngọn nến” bằng cách thắp nến ngoài cửa sổ, gió thổi ngọn lửa dao động trong gió, chiếu sáng màn đêm một cách yếu ớt với tất cả nỗ lực của chính bản thân nó. Ống kính được mở từ khi ngọn nến được bắt đầu thắp lên cho đến khi lụi tàn. Hình ảnh thu lại được là sự cô đọng của thời gian trong hào quang của ánh sáng. Ngọn lửa ngay từ khi được sinh ra đã mang sự hào nhoáng, rực rỡ tự thân của nó, trong cơn gió, chúng nỗ lực đấu tranh để sinh tồn, khoảnh khắc lụi tàn cũng là lúc người nghệ sĩ đóng màn trập của máy, thu tất cả những rực rỡ hào nhoáng trong suốt quá trình tồn tại đó vào trong một bức ảnh.(5)
Tính khái niệm
Hiroshi Sugimoto nhìn nhận những tác phẩm của mình thông qua những khái niệm. Tồn tại trong đó không phải là sự sống, không phải là đối tượng hiện hữu mà là các ý niệm mang tính vĩnh hằng, bất diệt. Người xem được rũ bỏ những kinh nghiệm của bản thân về đối tượng khi nhìn vào các bức ảnh, thay vào đó là những khái niệm mang tính nguyên thủy nhất trong sự tập trung, lắng đọng của tâm thức.
In Praise of Shadow không chỉ là cuộc sống từ lúc sinh ra đến lúc lụi tàn của những ngọn nến mà trong tâm tưởng người nghệ sĩ, đó chính là Lửa, “Lửa thuần hóa đánh dấu sự lên ngôi của loài người so với các loài khác. Trong hàng chục ngàn năm, chúng ta đã thắp sáng màn đêm bằng ngọn lửa.”(6); Chuỗi tác phẩm Seascapes chụp vô số cảnh biển trong sự giao thoa giữa trời và đất đối với người nghệ sĩ chính là Nước và Không khí: “Nước và Không khí. Là những chất phổ biến nên chúng không hề thu hút sự chú ý của chúng ta… là sự khởi đầu của cuộc sống huyền thoại…”(7); Tháp Effel ở Paris, Pháp, Tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York trong mắt người nghệ sĩ chính là những kiến trúc đại diện cho “sự khởi đầu của thời đại chúng ta”(8).
Sea of Buddha(9) là 48 bức ảnh chụp mang tính khái niệm, thời gian và lịch sử, những chi tiết được bổ sung sau này trong không gian chụp được loại bỏ, không sử dụng cả những ánh sáng hiện đại, chuỗi ảnh về Đức Phật nghìn tay được chụp theo một cách tự nhiên nhất như sự hình thành sơ khởi ban đầu. Trong bố cục, hình ảnh các Đức Phật nối tiếp nhau một cách vô tận, là khái niệm được sản sinh của không gian vô hạn, của sự tái sinh vô lượng trong tính lặp đi lặp lại của đối tượng được ghi nhận. Trong chuỗi ảnh Colors of Shadow, Hiroshi Sugimoto dùng ánh sáng để học tập bóng tối, đối với ông, bóng tối không chỉ là một phần của bức ảnh mà trong chính những bức ảnh đó, khái niệm về Bóng Tối thoát ra khỏi những quan niệm thông thường, đóng vai trò là đối tượng có sự vận động, có cuộc sống của riêng mình: “…trong ánh sáng buổi sáng, những cái bóng chơi tự do trên các bề mặt, bây giờ xuất hiện, bây giờ tan biến. Vào những ngày mưa, chúng đảm nhận một vai trò sâu hơn, gợi hơn.”(10)
Thế giới nghệ thuật trong những tác phẩm nhiếp ảnh của Hiroshi Sugimoto là một thế giới nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, từ những bức ảnh hai chiều trên mặt giấy, chúng ta khám phá được sự vận động của không gian trong những bố cục đăng đối, thăng bằng đến bất biến, khám phá được các cung bậc của màu sắc trong vô vàn những sắc độ đậm nhạt. Hiroshi Sugimoto đem lại cho chúng ta tầm nhìn từ một phía khác, là sự quán chiếu trong tâm tưởng của ý thức dựa trên những hình ảnh thực tế nhưng lại tách rời khỏi thực tại, là những khái niệm mới về sự tồn tại của thời gian mà đối tượng sinh khởi, tận diệt được thu lại thông qua thị giác nhưng lại tách rời khỏi thị giác để đến với ý thức tĩnh tại của thiền định.
H.L
(SHSDB37/06-2020)
...............................................
1. Hiroshi Sugimoto, (2016), Hiroshi Sugimoto: Theaters. Publisher: Damiani/Matsumoto.
2. Hiroshi Sugimoto, (2005), Hiroshi Sugimoto: Seascapes. Publisher: Damiani.
3. Hiroshi Sugimoto, (2019), Hiroshi Sugimoto: Architecture. Publisher: Damiani/MW Editions.
4. Carla Taban (editor), (2013), Meta- and Inter-Images in Contemporary Visual Art and Culture. Leuven University Press. P.123
5. Hiroshi Sugimoto, (1999), In Praise of Shadows. Publisher: CCA Kitakyushu / Korinsha.
6, 7, 8. Hiroshi Sugimoto, Hiroshi Sugimoto Official website.
9. Hiroshi Sugimoto, (1997), Sea of Buddha. Sonnabend Sundell Editions
10. Hiroshi Sugimoto, Hiroshi Sugimoto Official website.
Tác giả Oriana Fallaci lột tả cảm xúc của người phụ nữ từ lúc mang thai, dằn vặt nội tâm giữa việc giữ hay từ bỏ đứa con trong bụng, đến khi đau đớn mất con.
Sau gần một thế kỷ bị chìm trong quên lãng, "Temperature" - tác phẩm của nhà văn F. Scott Fitzgerald - đã được xuất bản trên một tạp chí.
Chúng tôi giới thiệu với bạn đọc một tư liệu văn học khá đặc biệt mới được công bố lần đầu trên tuần báo Ngọn lửa nhỏ (số 49 tháng 12-1988) Liên Xô, có liên quan số phận cuộc đời của nhà thơ Nga mà hiện nay tên tuổi ông đã trở nên nổi tiếng thế giới - Iôxíp Brôđxki (giải thưởng Nô ben).
Một khu triển lãm thuộc địa nhằm ca tụng quá trình chinh phạt của thực dân Pháp, trong đó có nhiều di tích đến từ Việt Nam, hiện đang hoang phế điêu tàn.
Năm 1854, Nhật Bản chính thức “mở cửa” sau khoảng 250 năm thực thi chính sách Sakoku (Tỏa quốc) dưới thời Edo (1600-1868) và không lâu sau, gấp gáp bước vào công cuộc Duy tân thời Minh Trị (1868-1912) với hàng loạt đổi thay mạnh mẽ.
NGUYỄN DƯ
Tôi vốn không thích đi đến những nơi xa lạ. Ngại những cái phiền toái.
WILLIAM B NOSEWORTHY
"Những cuốn Lịch Sử Thơ Mỹ” chỉ có bốn ấn bản chính đáng kể, được viết theo chủ đề trên.
SERGEI BELOV
Tiểu truyện
Trên góc đường Malaya-Meschanskaya và Stolyrany có một chung cư trông thật khiêm tốn, đó là nơi nhà văn Dostoievsky với đứa cháu của người vợ đã mất cùng bà nhũ mẫu trung thành đang ở.
Ở các nước phương Tây trước đây, tóc thường được lấy từ di hài người vừa nhắm mắt xuôi tay và giữ làm vật lưu niệm trong gia đình. Các món tóc từng ở trên đầu hai nhà soạn nhạc bậc thầy Wolfgang Amadeus Mozart và Ludwig van Beethoven đã được đem ra bán đấu giá trong cùng một phiên tại nhà Sotheby London vào ngày 28/5 mới đây, sau một đợt triển lãm cho công chúng thưởng ngoạn.
Mặc dù năm nay khép lại với kết quả gây đầy tranh cãi, LHP Cannes vẫn là nơi đáng mơ ước cho mọi nhà làm phim trẻ, mong tìm được bệ phóng tốt cho giấc mơ điện ảnh của mình.
(Đọc “Cuộc cách mạng một-cọng-rơm”)*
Từ một chuyên viên trong văn phòng của một viện nghiên cứu, chàng trai tuổi đôi mươi Masanobu Fukuoka bỏ ngang xương để trở thành một nhà nông nuôi dưỡng tín điều duy nhất: làm nông theo hình thái tự nhiên.
Vlađimia Maiakôvski (1893 - 1930) là nhà thơ đầu tiên ở thế kỷ XX đã cống hiến tài năng lớn lao của mình cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cái vốn thơ dấn thân, say mê và dữ dội của ông, ông đưa nó ra đường phố, hướng về phía quần chúng và biến nó thành "chỉ huy sức mạnh con người".
LTS: Dana Gioia là một nhà thơ, nhà phê bình, và thầy giáo hiện ở Mỹ. Ông sinh năm 1950 tại Los Angeles. Ông học đại học Standford và tốt nghiệp M.A về Văn chương Đối chiếu từ Đại học Harvard trước khi làm việc trong ngành kinh doanh. Sau 15 năm làm quản trị thương mại ở New York, ông bỏ chức phó chủ tịch công ty để toàn tâm viết sách và dạy học.
Hẳn là đã có rất nhiều người nghe nói đến cuộc tranh luận uyên bác kéo dài hơn 200 năm đề cập đến những bài Xô-nêt của Shakespeare và những cố gắng chưa có kết quả nhằm nhận ra những nhân vật chính trong các tác phẩm, đó là "Người đàn bà sầu thảm" và "Cậu bé dễ yêu".
TRẦN PHƯƠNG LINH
Gunter Grass, tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức, từng đoạt giải Nobel văn học năm 1999, vừa qua đời ngày 13/4/2015 tại bệnh viện ở thành phố Lubeck-Đức, hưởng thọ 87 tuổi.
Triết hiện sinh chia tay với triết học "trừu tượng". Nó quan tâm đến tính chủ thể cụ thể của con người, chứ không phải khái niệm trừu tượng về "chủ thể". Đó là lý do nhiều triết gia hiện sinh (như Sartre, Camus...) chọn hình thức văn nghệ (tiểu thuyết, kịch...) để đến gần hơn với đời sống thực, nói lên những băn khoăn, thao thức, đau khổ và lựa chọn trong "thân phận" làm người.
(Vài suy nghĩ nhân đọc thư của các bạn Việt Nam nghe đài Matxcơva)
IRINA ZISMAN MÔSCƠVINA (Nhà báo Liên Xô)
Series hòa nhạc tương tác dành cho trẻ nhỏ dưới tám tuổi Bach Before Bedtime đang nỗ lực xóa bỏ khoảng cách cố hữu giữa nghệ sĩ và khán giả, làm cho môi trường âm nhạc cổ điển trở nên thân mật nhất trong khả năng có thể.
Triết học đôi khi được hiểu như là “nghệ thuật sống” và quả thật, điều này đúng. Nhưng cũng có những lý do để tin rằng triết học có thể còn là “nghệ thuật chết”.