Chất chứa “Hải Kỳ tuyển tập”

10:38 17/07/2012

NGÔ MINH

Sau gần một năm chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, lo “chạy” kinh phí, đến giữa tháng 6-2012, Hải Kỳ tuyển tập(*) đã ra mắt độc giả. Tuyển tập dày 596 trang do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa rất bắt mắt.

Ảnh: nhathonguyentrongtao.wordpress.com

Hai chữ HẢI KỲ cứ láy đi láy lại như điệp khúc, như tiếng vọng giữa cuộc đời. Hải Kỳ là nhà thơ có tên tuổi trong làng thơ Việt Nam, được công chúng yêu thơ cả nước mến mộ. Anh là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1994, là nhà thơ có nhiều duyên nợ với Huế cả về đời tư và trong thơ. Bố Hải Kỳ là ông Trần Toàn, làm nghề lái xe đò tuyến Huế - Đồng Hới. Lấy vợ và sinh ra Hải Kỳ ở Huế năm 1949. Đến 5 tuổi ông đưa mẹ con Hải Kỳ ra thăm quê nội, một thời gian giới tuyến Hiền Lương bị đóng, thế là ông xa mẹ con Hải Kỳ từ đó. Chờ hai năm Nam Bắc không sum họp như quy định trong Hiệp định Genève, mấy năm sau ông lấy vợ khác ở Sịa, huyện Quảng Điền.

Hải Kỳ lớn lên học ở Đồng Hới. Do chiến tranh, mẹ cho sơ tán lên quê nội Lệ Thủy, học cấp 3 Lệ Thủy 1965-1968 cùng lớp với Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty, Nguyễn Minh Hoàng... Được hai thầy giáo dạy văn giỏi là Lương Duy Cán (nhà thơ Hà Nhật) và Phan Ngọc Thu trực tiếp giảng dạy. Năm 1968, tốt nghiệp cấp 3 ở nơi sơ tán Ngư Hóa, Tuyên Hóa, miền Tây Quảng Bình. Do lý lịch “bố đi Nam”, không được thi đại học, Hải Kỳ phải theo khóa học sư phạm cấp tốc hai tháng. Học xong hai tháng sư phạm vùng rừng núi Troóc, miền tây Bố Trạch thì mẹ bị máy bay Mỹ bắn rócket chết ở Cầu Rào, Đồng Hới. Thế là Hải Kỳ mất mẹ, cha thì ở miền Nam, không có tin tức gì. Từ đó, Hải Kỳ dạy học, nuôi em trai Trần Văn Hà. Năm 1980, 31 tuổi, Hải Kỳ mới thi vào khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Bốn năm làm sinh viên ở Huế là bốn năm Hải Kỳ bùng nổ về thơ. Hàng chục bài thơ hay, đầy ám ảnh của Hải Kỳ là viết ở Huế trong thời kỳ này. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm, anh lại trở về dạy ở trường cấp 2 Đức Ninh, Đồng Hới cho đến khi xin nghỉ hưu sớm 5 năm vì chán cảnh dạy thêm học thêm, chán cảnh chạy theo thành tích trong giáo dục...

Trong sổ tay của rất nhiều bạn trẻ Huế, Quảng Bình, Đà Nẵng và cả nước còn lưu những bài thơ tình hay của Hải Kỳ. Anh làm thơ từ thời học sinh phổ thông trung học. Năm 1970, Hải Kỳ được trao giải thưởng cuộc thi thơ ở Quảng Bình với bài thơ “Tiếng bom”. Hải Kỳ đã xuất bản 5 tập thơ: Ngọn gió đi tìm (1987 - tái bản 2001); Đồng vọng (1989); Nằm đếm trời sao (1997); Đối thoại lục bát (1999); Giấc mơ (2009). Ngoài ra, trong nhiều tuyển tập thơ lớn của Việt Nam thế kỷ XX và các địa phương như miền Trung, Huế, Quảng Bình... đều có sự góp mặt của thơ Hải Kỳ. Anh có nhiều bài thơ hay, ám ảnh như bài thơ Mẹ tôi, Tôi ra Cửa biển, Tôi và em với Thiên An, Người phu mộ, Tôi nhìn cho đến... Hải Kỳ là nhà thơ có bài thơ lục bát hay được chọn vào Tuyển lục bát Việt Nam hai thế kỷ, có nhiều câu thơ tuyệt hay được chọn trong tuyển “Những câu thơ tài hoa Việt Nam”... Đặc biệt trong các tuyển tập thơ quan trọng như Thơ Việt Nam thế kỷ XX (Nxb. Giáo Dục), Tuyển tập thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nhà văn Việt Nam Hiện đại Quảng Bình, Thơ miền Trung thế kỷ XX, Hai thập kỷ thơ Huế, 700 năm thơ Huế, Thơ 20 năm Sông Hương đều tuyển chọn những chùm thơ hay của Hải Kỳ. Phim chân dung Hải Kỳ - thơ và biển do VTV Huế sản xuất năm 2010 đã phát nhiều lần trên sóng VTV1, VTV3, VTV Huế phần hình ảnh trong phim là khung cảnh Đồng Hới và Huế như sông Nhật Lệ, cửa biển Hải Thành, nhà thờ Tam Tòa, đồi thông Thiên An, lò rượu chị Hiếu ở Phú Cam, trường Hai Bà Trưng, Sông Hương v.v.. nơi phát tích của những bài thơ Hải Kỳ.

Hải Kỳ tuyển tập được chia làm 3 phần: Phần 1 là Thơ tuyển với 268 bài thơ trong toàn bộ sáng tác thơ của Hải Kỳ trong hơn 40 năm cầm bút, được chọn lọc, đáp ứng nhu cầu yêu thích thơ Hải Kỳ của công chúng. Thơ Hải Kỳ sâu đậm với hai vùng quê gắn bó với đời anh là Đồng Hới và Huế. Trong tuyển có hàng trăm bài thơ viết ở Đồng Hới như Mẹ tôi, Tôi ra cửa biển... Lại có gần trăm bài thơ viết về Huế như Tôi và em với Thiên An, Chơi chùa Bảo Quốc, Bỗng nhiên ngọn lửa, Nhớ Huế, Người phu mộ, Diệp liễu vàng, Nói với Huế v.v.. Nhiều người yêu thơ vẫn thuộc những câu thơ da diết của Hải Kỳ:

Chao ôi cây nối liền cây
Người sao chẳng biết cầm tay với người
Giữa rừng em với mình tôi
Lặng im giấu một khoảng trời Thiên An.

                        (Tôi và em với Thiên An)

Hay:

Đêm này, đêm Chúa giáng sinh
Tình yêu tôi cũng tượng hình đêm nay
Chúa Trời giang rộng cánh tay
Trên cây Thánh giá lưu đày khổ đau
Tình yêu tôi cũng nhiệm màu
Đóng đinh tôi ngàn thuở đầu trang thơ

                        (Dạ khúc Nô en)

Một lần chơi chùa Bảo Quốc, trò chuyện với con chim nhồng được nuôi trong lồng ở gần chùa, Hải Kỳ đã để lại cho Huế những vần thơ sâu sắc: Tiếng con chim Phật nghe rồi/ Cứ nghi hoặc đấy là lời hư vô/ Như là từ xửa từ xưa/ Khổ đau luyện mãi mà chưa thoát trần...

Phần 2 là Bài viết, Nhật ký, Thư từ, giúp bạn đọc hiểu thêm cuộc đời nhà thơ, những ghi chép, suy nghĩ xúc động và thú vị về văn chương, thế sự trong cuộc sống thường nhật. Đây là đoạn nhật ký Hải Kỳ ghi về bữa cơm của bố con nhà thơ - nhà giáo chuyên văn Mai Văn Hoan ở khu tập thể trường Hai Bà Trưng thời bao cấp, ngày 18-10-1980: “Nhưng Hoan vẫn đi vay gạo. Không vay được, Hoan mua về 2 ổ mì. Nào ăn đi! Cả cơm nữa nhé! Hoan tuyên bố như trước bữa tiệc. Cơm ư? Chao ôi, bạn cũng như tôi. Bữa cơm chỉ được lưng bát trộn sắn khô. Thức ăn là dăm con tôm như lá cỏ và một bát canh khế trong như nước suối. Ôi! Nói cái điều ăn uống ra đôi khi cũng chẳng hay ho gì. Nhưng bữa ăn của người mà dở đến thế thì giữ cái hay làm chi...”. Hay trong thư gửi Ngô Minh ngày 5-11-1985 sau bão số 8, Hải Kỳ nhắc lại những kỷ niệm về bạn bè rất cảm động: “...Ở đây, cơn bão có gây lụt lớn vùng Phú Vinh, Cộn, Mĩ Cương… làm trôi nhà cửa đường sá. Duy nhà thơ, à quên, thi sĩ ở đỉnh đồi và nhà tập thể nên cũng bị xoàng thôi. Thế mà lại được tiền nong, cơm gạo quyên góp của các nhà thơ “Pê tec bua” cứu trợ thì thật phúc đức hơn dân chúng nhiều lắm. Các anh Tô Nhuận Vỹ, Sĩ Sô ra sau bão. Uống rượu đến 1 giờ sáng, đi bộ từ nhà Thúc Hà về 5 “cây-lô-mếch”, với một cái chai không cầm làm nhịp và “vũ khí tùy thân”… Sau đó một tuần thì Mây, Thạch và anh Quang Hà lại xuất hiện để an ủi lần nữa.

Ban Giáo dục Đồng Hới đang “thuê” Hải Kỳ nói chuyện thơ cho 16 trường thị xã, chia làm 3 cụm để thi sĩ đi về 3 nơi. Hải Kỳ sẽ nói về thơ thật, cảm hứng thật, cuộc đời thật của Mai a, B lôc, Ê xê nhin, Ép tu sen cô, Ra xun và bạn bè. Sẽ chửi rủa ra trò bọn thơ giả, bọn cơ hội trong đời này
”.

Phần 3 là Hải Kỳ trong lòng bè bạn gồm những bài viết về thơ Hải Kỳ và thơ tặng Hải Kỳ của rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và bạn yêu thơ trong cả nước, trong đó có những người nổi tiếng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Quang Lập, Lê Xuân Đố... Trong bài “Cõi thơ Hải Kỳ”, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết:

Thế mà cũng ngóng, thế mà lại trông
Rứa là Huế đó, răng không
Đa tình với núi với sông với người

Đa tình đến ý nhị vậy cũng thật đáng đa tình. Đây là nói cái ý nhị của hồn thơ, của cái cõi thơ. Nhưng để chở cái hồn cái cõi ấy, phải nói đến chữ của thơ. Cũng “răng” cũng “rứa” mà sao trong thơ Hải Kỳ nó như có ma lực vậy? Chính từ ngữ dùng đắc địa, nó đã tạo cho thơ anh trở nên lung linh sống động mà có sức hướng nội. Nó không chỉ dính vào ta mà còn làm ta “phải lòng” nữa.
..”.

Những bài viết và thơ tặng chính là sự cuốn hút, lay động của thơ và nhân cách sống của Hải Kỳ đối với tác giả. Đọc phần này, độc giả sẽ thấy được sức sống của nhân cách thơ nhà thơ Hải Kỳ trong lòng bè bạn.

Để có Hải Kỳ tuyển tập xúc động và chất chứa, từ sau Tết Nhâm Thìn, tôi đã có thông báo rộng rãi trên các trang web, blog “kêu gọi mọi người có các bài thơ, bài viết, thư từ hay tài liệu liên quan đến nhà thơ Hải Kỳ thì gửi về cho Ngô Minh hoặc Mai Văn Hoan...”. Nhờ thông báo đó mà chúng tôi đã nhận được một số bài thơ, bài viết, thư từ quan trọng. Thì ra thơ, thư Hải Kỳ có trong va-ly của nhiều người lắm, nhất là các người đẹp. Mặt khác, nhà báo Trần Minh Văn, con trai út của nhà thơ đã thức mấy chục đêm liền để đánh máy hết toàn bộ 5 tập thơ đã xuất bản của bố. Mai Văn Hoan thì cắm cúi từng đêm đọc lại những trang nhật ký, những lá thư đã vàng ố thời gian để chọn những đoạn nhật ký, lá thư ưng ý nhất vào Tuyển tập. Tất cả công việc đó được tiến hành khẩn trương, song song với việc gửi thư đề nghị Hội Nhà văn Việt Nam đầu tư kinh phí để in ấn tuyển tập. Bây giờ giá giấy lên cao, in một cuốn sách dày 600 trang giá thành lên đến 75 nghìn đồng/cuốn. Gia đình vợ con Hải Kỳ lại nghèo. Vợ không có lương hưu. Lâu nay hai vợ chồng chỉ sống bằng đồng lương hưu của Hải Kỳ. Thấy hoàn cảnh eo hẹp, anh Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam duyệt cho 20 triệu đồng. Hôm hội thảo “Văn học nghệ thuật trong dòng chảy văn hóa Huế” ở Huế, anh Hữu Thỉnh đã khoác vai tôi bảo: “Thông cảm. Thông cảm cho mình. Mình thương Hải Kỳ lắm. Nhưng hai mươi triệu là tối đa. Là diện đặc biệt rồi. Không thể hơn. Không thể hơn”. Tôi ôm nhà thơ Hữu Thỉnh rất chặt, giống như ảnh Hải Kỳ đã ôm Hữu Thỉnh ngày nào, mà chúng tôi đã chọn in trong tuyển. Nhà thơ Lê Đình Ty ở Đồng Hới thì chăm chút từng con chữ, từng trang tuyển tập. Đọc mo-rát bản thảo, phát hiện thấy mấy câu thơ không đúng theo trí nhớ của mình, anh cũng cẩn thận lục tìm bản gốc là các tập thơ Hải Kỳ để tra cứu, chỉnh sửa.

Tuyển tập Hải Kỳ in xong trước ngày giỗ đầu của nhà thơ là một cố gắng đáng trân trọng của anh em biên tập, của Hội Nhà văn Việt Nam, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình và gia đình. Với tất cả tình yêu mến và lòng kính trọng nhân cách và sự nghiệp thơ Hải Kỳ, xin trân trọng gửi đến bạn đọc Huế cuốn Hải Kỳ tuyển tập dày dặn, đầy đủ này.

Huế, tháng 6 năm 2012
N.M
(SH281/7-12)


.......................................
Hải Kỳ tuyển tập, NXB Thuận Hóa, 2012.









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tiểu thuyết "Công chúa nhỏ" của Frances Hodson Burnett kể câu chuyện về cô tiểu thư thất thế, nhưng vẫn mang trong mình cốt cách lớn.

  • (Vài cảm nhận khi đọc “BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA” tiểu thuyết của nhà văn TRƯƠNG VĂN DÂN
    (cty vh Phuong Nam-Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • “Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...

  • “Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”

  • Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nho yêu nước Phạm Phú Thứ không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.

  • “Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? ​Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.

  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.