Chân Mây, Kê Gà, Đa Kao, Đất Hộ…

17:09 08/01/2014

NGUYỄN DƯ

Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

Vịnh Chân Mây - Ảnh: internet

Thú thực là lần nào qua đèo cũng chỉ hồi hộp nhìn xe cộ chơi rồng rắn. Dốc dài và cao. Trên lao xuống, dưới bò lên. Lách ra, táp vào. Còi hét, đèn chớp. Du khách lo sợ bám chặt thành ghế. Đúng là Đi bộ thì sợ Hải Vân.

Rồi xe cũng lên tới đỉnh. An toàn! Mời bà con nghỉ giải lao.

Chân vừa chạm đất, mắt đã phải lấm lét tìm chỗ để giải quyết… chuyện cấp bách. Nhẹ bụng. Tỉnh trí. Sực nhớ phải tận dụng khoảnh khắc còn lại để thở hít không khí mát mẻ, co duỗi chân tay. Chụp một tấm ảnh kỉ niệm. Vừa tầm bác tài giục mọi người lên xe.

Vậy là biết đèo Hải Vân rồi!

Năm ngoái chúng tôi được anh bạn ở Đà Nẵng rủ đi chơi Huế bằng xe nhà. Tha hồ la cà đó đây. Thích đâu ngừng đấy.

Đường vắng xe. Phần lớn xe khách, xe tải bây giờ thích đi đường hầm chui qua núi. Vừa nhanh chóng vừa an toàn hơn đường dốc.

Lần này mới được ngắm cảnh. Được ngồi trong mây uống cà phê trên đỉnh đèo. Được sờ mó Thiên hạ đệ nhất hùng quan. Được thấy xóm làng. Được nghe văng vẳng tiếng chuông, mõ.

Lần này xe đi đường nhỏ, uốn lượn men theo vụng biển. Ghé Cảnh Dương ăn trưa. Thưởng thức hải sản tươi sống 100%. Ăn xong, có võng nằm thư giãn.

Cảnh Dương chưa có tên trong chương trình thăm viếng của các tuyến du lịch. Chưa trở thành “bãi biển đẹp nhất Đông Nam Á”. Nhờ vậy mà thiên nhiên nơi đây còn… dễ thương.

Làng chài sinh hoạt lặng lẽ, bình thường. Hàng quán chưa bắt mọi người phải nghe nhạc đinh tai nhức óc. Bãi cát mênh mông, trải dài trước mặt.

- Chỗ núi nhô ra biển kia là Mũi Chân Mây.

Chân Mây! Nhà thơ nào đã tức cảnh sinh tình, khéo đặt tên cho vùng trời mây non nước? Chân mây cuối trời. Bóng nước chân mây… Thiên nhiên đẹp, buồn man mác. Chân Mây gợi nhớ xa xôi.

“Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”
                                      (Kiều)

“Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
                                    (Chinh phụ ngâm)

Chân mây mặt cỏ rầu rầu,
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!”
                                    (Trần Tuấn Khải)

Cả năm trời đã trôi qua mà vẫn còn nhớ bữa ăn tại Cảnh Dương. Nhớ Chân Mây thơ mộng. Nhớ quá hóa… tò mò muốn tìm hiểu thêm vùng đất này.

Chân Mây ngày nay thỉnh thoảng được sách báo nhắc đến vì có nhiều tiềm năng kinh tế, du lịch. Thực dân Pháp ngày xưa cũng đã từng để ý đến Chân Mây vì mục đích chiến lược quân sự.

Cho đến cuối đời Tự Đức, nước ta không có địa danh Chân Mây. Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chỉ có Cảnh Dương, vụng Chu Mãi, núi Chu Mãi, cửa biển Chu Mãi.

Đại Nam nhất thống toàn đồ, bản đồ vẽ năm 1834, đời Minh Mạng, có ghi tên Cảnh Dương, Chu Mãi bằng chữ Hán. (Chữ Chu, bộ Mộc, nghĩa là màu đỏ. Chữ Mãi, bộ Bối, nghĩa là mua).

Thời nhà Nguyễn, Chu là chữ húy, phải đọc thành Châu. Các giấy tờ, văn bản được nhà vua phê duyệt, đóng dấu màu đỏ, gọi là châu bản (bản được phê bằng màu đỏ). Vì vậy, Chu Mãi đôi khi còn được người địa phương gọi là Châu Mãi.

Từ ngày nước ta bị Pháp cai trị, chữ Hán được thay thế bằng chữ quốc ngữ. Tiếng Việt được người Pháp ghi âm theo cách phát âm của tiếng Pháp. Tiếng Pháp lại được thông ngôn người Việt ghi âm bằng chữ quốc ngữ, theo cách phát âm của người Việt. Ngôn ngữ bất đồng, ghi âm thiếu chính xác, không thống nhất. Ngộ nhận, nhầm lẫn là điều khó tránh.

Năm 1749, Chu Mãi được Pierre Poivre ghi âm thành Chu-mée (đọc là Chu Mê).

Tiếp đến thời kì thực dân Pháp thăm dò vẽ bản đồ vùng đèo Hải Vân để mở đoạn đường bộ Đà Nẵng - Huế. Chu Mãi được Besson và nhiều người khác ghi âm là Choumay (Chu Mai). Vịnh Chu Mãi được Pháp phân biệt thành mũi Chu Mãi Đông và mũi Chu Mãi Tây (cap Est de Choumay cap Ouest de Choumay).

Tháng 2 năm 1886, bác sĩ Hocquard đi qua Chu Mãi, trên đường từ Huế vào Đà Nẵng. Hocquard cũng ghi âm Chu Mãi Choumay (Chu Mai).

Năm 1920, Henri Cosserat đưa ra một cách giải thích mới: “Choumay, viết đúng chính tả là Châu Mới. Châu Mới là đất thời người Việt mới đến chiếm đóng”(1).

Philippe Papin cũng ngả theo thuyết của Cosserat, cho rằng mũi Chaumay (Châu Mai) có thể là do Châu Mới mà ra(2). (Hocquard chép là Choumay, Papin đổi thành Chaumay để giải thích).

Nguyễn Đắc Xuân cho biết “người dân địa phương gọi (là) Chu Mới”(3).

Sử chép rằng ngày xưa, vua Chế Mân nước Chiêm Thành đã dâng châu Ô, châu Lí cho vua Trần Nhân Tông để xin cưới công chúa Huyền Trân. Châu Ô, châu Lí được nhà Trần đổi tên thành châu Thuận châu Hóa. Ngoài ra, thời nhà Trần không có châu mới nào khác nằm giữa Huế và Đà Nẵng.

Cũng cần nói thêm là chữ Châu (Châu Mãi, bộ Mộc) viết khác chữ Châu (Châu Mới, bộ Xuyên). Đại Nam nhất thống toàn đồ khẳng định là không có Châu Mới hay Chu Mới.

Chu Mãi ban đầu được người Pháp ghi âm khá đúng thành Choumay.

- Âm u (u mê) của tiếng Việt giống âm ou của tiếng Pháp. (Chu Ân Lai được tiếng Pháp ghi là Chou An Lai).

- Âm ai (em là ai?) của tiếng Việt tương đương với âm , gần giống âm ay của tiếng Pháp. Mãi đúng ra phải ghi là Mað, nhưng để tránh chữ ð rắc rối, người ta ghi thành May.

(Hải Phòng = Hað Phong, Yên Bái = Yen Bay, Móng Cái = Mon Cay. Vì vậy mà thỉnh thoảng chúng ta được nghe, được thấy… Yên Báy, Móng Cáy. Mấy cái tên “tây giả cầy”).

Chu Mãi hay Châu Mãi được Pháp bóp méo thành Choumay hay Chaumay.

Đến lượt mấy ông thông ngôn người Việt nhập cuộc, uốn nắn… tiếng Pháp.

May rõ ràng là… Mây. Chou Mây hay Chau Mây chỉ có thể là… Chân Mây bị viết sai! Từ đấy, nước ta có Mũi Chân Mây (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế), có vịnh Chân Mây. Tên rất lãng mạn! Nhưng không phải là chân mây của thơ văn.

Chu Mãi chỉ là một trường hợp cho thấy người Pháp và người Việt đã cùng chung tay bóp méo, nhào nặn thành Chân Mây, Châu Mới hay Chu Mới.

*

Trên bản đồ nước ta ngày nay có 3 tỉnh miền Trung (Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận) có Mũi Kê Gà. Tên nghe ngộ nghĩnh. Vừa vừa . Nhưng Kê Gà được ba tỉnh khác nhau dùng thì phải có lí do chính đáng nào chứ?

Mang tiếng là thích du lịch mà cứ ngậm tăm sao?

Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chép:

- Mùa đông tháng 10 năm 1794, “Lấy Phó Hậu chi dinh Trung thủy là Lưu Tiến Hòa quản đạo Ma Li, kiêm lĩnh ba thủ Kê Khê (Khe Gà), La Di, Phù Mi (…)”(4).

- Mùa đông tháng 10 năm 1797, “Lấy khâm sai thuộc nội thống binh cai cơ quản đạo Ma Li là Võ Văn Lân quản đạo Phan Rang, kiêm hai thủ Ma Vằn và Du Lai. Khâm sai thống binh cai cơ cựu chánh Hậu chi Hữu quân là Nguyễn Văn Cẩm quản đạo Ma Li kiêm ba thủ Khe Gà, La Di và Phù Mi”(5).

- Mùa hạ tháng 4 năm 1854, “Giặc biển giết người, cướp bóc thuyền buôn ở cửa biển Long Hưng về Biên Hòa; lại cướp thuyền đại dịch và thuyền buôn ở phận biển khe Kê Chuỷ về Bình Thuận”(6).

Khe Kê Chủy dịch đầy đủ là khe Mỏ Gà. Gọi như vậy vì địa hình tại đây trông giống cái mỏ gà. Khe Mỏ Gà gọi tắt là Khe Gà, thuộc tỉnh Bình Thuận.

Năm 1876, Trương Vĩnh Ký soạn một bài học địa lí rất dài bằng thơ, dành cho bậc tiểu học, đặt tên là Nhựt trình đàng biển nước Annam (từ Vạn Ninh kể vô cho tới cửa Cần Giờ)(7).

Từ Huế vào đến Cần Giờ có hai nơi mang tên Khe Gà:

“Chốn Khe-đào, nhà Rô, mũi Mác,
gành Khe-gà tục-tác bò ra.
Xóm đò ngọn khói đã qua,
lăn buồm dựa Chụt đó là Nha-Trang.

(Gành Khe Gà là Mũi Kê Gà ngày nay, xã Vĩnh Lương, gần thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa).

“Đứng xa ngó dặm trông chừng,
Phố Giày, Phan Thít (Thiết) đã gần trạm Lung.
Sóng giồ bãi cát ỳ-ầm,
sơn lâm một gánh chập-chồng đôi vai.
Khe Gà thì đã tới nơi,
hòn Lang núi Cát thảnh-thơi một gò”.

(Khe Gà là mũi Kê Gà ngày nay, phía Nam thành phố Phan Thiết, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận).

Tên Kê Gà từ đâu ra?

Bản đồ La Cochinchine française en 1878 có địa danh Pointe Trăng Lợi (Kéga) thuộc Bình Thuận, nằm gần Phan Thiết, La dỳ (La Gi ngày nay). Người Pháp đã khai sinh ra Kéga (đọc là Kê-Ga).

Khe Gà của tiếng Việt bị người Pháp đọc là Kéga. Khe được ghi âm thành Ké (). Trăm tội chỉ vì chữ h câm, hát (h) không ra tiếng của tiếng Pháp.

Kéga của Pháp lại bị thông ngôn người Việt diễn giảng ngược qua tiếng Việt. Các ông nhào nặn Kéga thành Kê Gà. Lợn lành chữa thành lợn què.

Khe Gà biến thành Kê Gà. Vừa kê vừa gà. Khôn ngoan đối đáp người ngoài/ Kê Gà một mẹ chớ hoài đá nhau! Ngộ nghĩnh. Nghe mãi cũng quen.

Khe của tiếng Việt chữ Hán là khê.

Khê khe nước ở chân núi (Đào Duy Anh). Khe nước, dòng nước trong núi không thông ra đâu gọi là khê (Thiều Chửu).

Khe sơn khê (núi và khe) được văn thơ dùng để chỉ rừng núi xa xôi.

“Liêu Dương cách trở sơn khê
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang”. (Kiều)

“Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…” (Chinh phụ ngâm)

“Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng
Ngoài trời mưa lê thê qua ngàn chốn sơn khê.
            (Nguyễn Văn Đông, Mấy dặm sơn khê)

“Ai về châu xưa, nhớ hồi máu thắm cây rừng
Còn vang khe núi tiếng quân oai hùng” (Văn Cao, Bắc Sơn)

“Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng”. (Tố Hữu, Việt Bắc)

“Cách rừng cách cả sơn khê!
Em ơi! Giữ mái tóc thề cho xanh!”
            (Đinh Hùng, Mái tóc viễn phương)

Khe núi (sơn khê) nào có hình cong cong như mỏ gà đều được gọi là Khe Gà. Tiền thân của Kê Gà sau này.

*

Thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông năm xưa, có khu phố Dakao (Đa Kao, có bản đồ viết là Đa Cao), thời Tây còn được gọi là Đất Hộ. Đa Kao nằm trong đất của thành Sài Gòn thời Minh Mạng.

Lịch sử của thành phố Sài Gòn đã được Vương Hồng Sển nghiên cứu rất sâu xa. Ông cho biết nhiều chi tiết quan trọng, đặc biệt là nguồn gốc của nhiều địa danh. Đáng tiếc là khi nói đến Đa Kao, Đất Hộ, Vương Hồng Sển không cho biết nguồn gốc của hai tên này(8) (9).

Xin được bàn… Đa Kao, Đất Hộ từ đâu ra?

Trở lại thời Nam Kì lục tỉnh bị mất về tay thực dân Pháp. Người Pháp một mặt ráo riết tổ chức guồng máy cai trị. Mặt khác đổ tiền ra xây dựng thành phố Sài Gòn mới. “San vùng đất cao, lấp vùng trũng thấp để mở đường, xây nhà”. Phải mất nhiều năm mới thực hiện được công trình to lớn này.

Con đường được quy hoạch đầu tiên của Sài Gòn là đường Catinat (Đồng Khởi ngày nay). Đường được trải đá, tráng nhựa, chạy thẳng từ bờ sông đến quảng trường nhà thờ Đức Bà(10)

“Đường Catinat dài hơn một cây số, thoai thoải dốc, hai bên đường trồng hai dãy me, xoài để lấy bóng mát”(11). Các cơ quan, công sở chính đều nằm xung quanh đường Catinat.

Lên hết dốc đường Catinat là tới vùng đất cao (zone de plateau) của thành Sài Gòn (thời Minh Mạng). Người Pháp xây nhà thờ Đức Bà, xây tháp nước (château d’eau)…

Xã hội Sài Gòn được “chia” thành mấy khu dân cư. Người Tàu thích sinh sống tại vùng đất thấp mé bờ sông, kênh rạch. Người Ấn Độ thích ở vùng đất cao ráo trong Chợ Lớn. Công chức Pháp thích xây nhà vườn ở vùng đất cao (zone de plateau) phía Sài Gòn. Vùng này cao hơn vùng đất thấp phía bờ sông Sài Gòn độ 10 mét.

Khu phố Đa Kao nằm tại vùng đất cao này.

Zone de plateau của Pháp được ta gọi là vùng đất cao. Đất cao được người Pháp phát âm là Dakao (Đa cao). Thế là bà con ta bưng nguyên mâm Đa Kao ra sài. Cái tên thuần Việt trở thành rất tây. Kết quả của giao lưu văn hóa… bất đắc dĩ.

Bạn bè tôi ơi, còn nhớ Casino Đakao không? Rạp thường trực, có máy lạnh. Mười đồng, có ngày hạ giá chỉ còn năm đồng, hai phim. Cao bồi đấm đá, bắn súng tưng bừng. Còn nhớ rạp A.Sam Đakao nóng như cái lò không?

Đa Kao còn có tên khác là Đất Hộ. Không phải vì đất này đông dân, nhiều hộ khẩu mà được đặt tên như vậy.

Khi mở đường xây dựng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, thực dân Pháp đã làm 2 đường chiến lược (routes stratégiques), nối liền hai khu vực đông dân. Một đường dưới phía bờ sông, đất thấp (route basse) và một đường trên phía đất cao (route haute).

Route haute được người Việt sính tiếng Pháp gọi là đường hô (haut). Đất cao được gọi là đất hô. Tiếng tây tiếng ta vật lộn, bất phân thắng bại cho tới ngày Đất Hô lột xác, biến âm thành Đất Hộ. Tiếng ta toàn thắng!

“Méc ai kiếm đất cất nhà
Đa Kao, Đất Hộ mới là Đất Cao”.

Xin bà con cho một tràng pháo tay, hoan hô các chuyên gia ngoại ngữ đã thêu dệt, trang điểm cho giang sơn gấm vóc này!

Lyon, 11/2013
N.D
(SDB11/12-13)


...............................
(1) Henri Cosserat, La route mandarine de Tourane à Huế, BAVH, 1-3/1920, tr. 57.
(2) Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 643.
(3) Nguyễn Đắc Xuân, Văn hóa Cố đô, Thuận Hóa, 1997, tr.196.
(4) Đại Nam thực lục, tập 1, Giáo Dục, 2004, tr. 313.
(5) nt, tr. 360.
(6) Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 307.
(7) Trương Vĩnh Ký, Manuel des Écoles primaires, Imprimerie Gouvernement, Saigon, 1876, tr. 24 - 26).
(8) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa (1968), Xuân Thu tái bản, tr.140, 198.
(9) Vương Hồng Sển, Sài Gòn tạp pín lù, Văn Hóa, 1997, phần 2, tr. 46.
(10) La Cochinchine française en 1878, Challamel, 1878, tr. 67 - 73.
(11) George Drrwell, Ma chère Indochine, Mignot, 1911, tr. 84.










 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.