Tháng 3-4/1975 Phó Cục trưởng Cục Quân nhu Từ Giấy và con trai Từ Đễ cùng hướng tới Sài Gòn bằng con đường khác nhau: người cha đi theo đường mòn Hồ Chí Minh, người con đi bằng máy bay.
Hai cha con GS. Từ Giấy cùng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cả dân tộc ra trận. Hàng vạn gia đình có nhiều người đi bộ đội, lên bưng biền, có nhiều gia đình cả hai thế hệ cùng lên đường chống Mỹ. Nhưng những gia đình mà cả hai cha con đều tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thì không nhiều. Một trong số những gia đình ít ỏi đó là gia đình Giáo sư Từ Giấy. Hai cha con đi chiến dịch với nhiệm vụ khác nhau và đường đi khác nhau nhưng đều hướng tới đích là giải phóng Sài Gòn.
Đi theo đường mòn Hồ Chí Minh : ngày 20/3/1975, sau khi bộ đội ta giải phóng Tây Nguyên, Giáo sư được cử tham gia đoàn công tác của Cục Quân nhu vào Miền nam với nhiệm vụ tổ chức bảo đảm quân nhu cho các chiến dịch tiếp theo. Đoàn công tác gồm 14 người do Giáo sư làm Trưởng đoàn, ông Phan Nhượng làm bí thư chi bộ, tôi là Đặng Trọng Sùng làm phó bí thư chi bộ. Ngay khi nhận nhiệm vụ, ông đã linh cảm về một ngày chiến thắng đang tới gần. Trên đường hành quân, ông tâm sự:” Trong kháng chiến chống Pháp khi tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi đã linh cảm và tin vào ngày chiến thắng. Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi đã nhiều lần vào chiến trường, nhưng lần này, tôi mường tượng về một chiến dịch rất lớn sắp bắt đầu và ngày toàn thắng không xa. Niềm tin của ông vào ngày toàn thắng và lời bài hát “Lá đỏ” “ …hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn !” vang lên khi các đoàn quân gặp nhau lan tỏa trong đoàn công tác, thôi thúc đoàn tăng tốc độ hành quân. Đến 29/3/1975 đoàn đã vào tới Lộc Ninh- đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Miền Nam.
Đi bằng đường không: cuối tháng 3/1975 Bộ tư lệnh quân chủng Phòng không- Không quânnhận được lệnh “ chuẩn bị tham gia chiến dịch”. Bộ Tư lệnh quân chủng đã họp bàn và đưa ra nhiều phương án khác nhau. Nhưng gợi mở của Tư lệnh Lê Văn Tri” liệu có thể lấy máy bay địch đánh địch?” đã mở ra hướng giải quyết. Ý tưởng của Tư lệnh càng được củng cố sau khi giải phóng sân bay Đà Nẵng ta thu được khá nhiều máy bay A-37 của quân đội Sài Gòn. Tư tưởng chỉ đạo của Bộ thống soái tối cao lúc đó là “ Thần tốc-táo bạo-quyết thắng”. Tư tưởng đó đã được lãnh đạo Quân chủng, các kỹ sư, phi công của “Phi đội Quyết thắng” thực hiện hết sức sáng tạo. Ngày 2/4/1975 đoàn cán bộ kỹ thuật của Quân chủng do đại úy Hồ Thanh Minh đã bay vào Đà Nẵng để tiếp quản và phục hồi máy bay A-37. Chiều ngày 22/4 các phi công của phi đội 4 Trung đoàn 923 cũng tới Đà Nẵng. Đây là các phi công lái MIG 17 do Liên Xô chế tạo.
Thông thường để chuyển loại máy bay phải mất 3 tháng, nhưng với tinh thần” thần tốc”, các phi công chỉ có 5 ngày làm quen và với 90 phút bay thử nghiệm, sau đó phi đội cơ động vào sân bay Thành Sơn ở Phan Rang. Chiều 28/4/1975 phi đội Quyết thắng gồm Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Lục, Từ Đễ, Hán Văn Quảng, Hoàng Mai Vượng và Trần Văn On xuất kích đi ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Trận đánh lịch sử này đã phá hủy 24 máy bay và diệt nhiều sinh lực địch. Chiều tối ngày hôm đó cả 5 chiếc máy bay trở về sân bay Thành Sơn nguyên vẹn. Hôm sau, Bộ Tư lệnh chiến dịch thông báo cho Giáo sư là con trai ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Giáo sư rất vui và bất ngờ về chiến công của Không quân Việt nam, trong đó có sự đóng góp của con trai mình. Giáo sư là người rất hóm hỉnh, ông nói với anh em trong đoàn công tác: trong kháng chiến chống Pháp, vợ chồng tôi trong 4 năm ( 1949- 1952) sinh ba cậu con trai, trong kháng chiến chống Mỹ vợ chồng tôi đóng góp hết cho quân đội, như vậy chúng tôi có “tầm nhìn” đấy chứ! Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chống Mỹ từ rất sớm. Bõ những năm vất vả nuôi con đàn.
“Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn”
Ngay từ lúc lên đường (ngày 20/3) Giáo sư luôn linh cảm là ngày toàn thắng sắp đến và ngày 30/4/1975 đã đến. Năm cánh quân đã hội quân ở Sài Gòn, khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đã thành hiện thực. Ngày 1/5/1975 phi đội Quyết thắng cơ động vào sân bay Biên Hòa. Chiều 2/5 đoàn công tác của Cục Quân nhu vào tiếp quản kho tàng hậu cần ở sân bay Tân Sơn Nhất. Ngày 3/5 tôi được chứng kiến hai cha con gặp nhau ở Sài Gòn, Giáo sư rất vui và cả đoàn công tác của Cục đã tổ chức liên hoan mừng ngày thống nhất đất nước và mừng cuộc gặp mặt lịch sử của hai cha con. Là người nhiều năm công tác với Giáo sư, đặc biệt cùng ông tham gia chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, tôi có nhiều kỷ niệm về Ông - người trí thức cách mạng mẫu mực, một trong những kỷ niệm đẹp là cuộc hội ngộ của hai cha con ở Sài Gòn ngày 3/5/1975 còn đọng mãi trong ký ức của tôi.
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).