Sự sùng bái tôn ti trật tự trong nhà là một thứ áp bức đè nén “tự nhiên” mà người ta không ý thức ra nữa, thậm chí còn được tôn vinh, nó khuyên dụ người ta phủ nhận cách thức nhìn nhận mỗi cá nhân như một nhân cách độc lập và tự do, với những phẩm chất gì, năng lực gì, đức hạnh gì, nó chỉ giục người ta nhăm nhe soi mói vào “địa vị-thân phận” của mỗi người, cái được xem như “cốt yếu” mà thôi.
Chiếc điện thoại ốp trên kính xe phía trước đang chạy chương trình dẫn đường trên cao tốc chợt rung chuông và hiện tên người muốn nối gọi “chat internet”. Cô bạn ngồi bên tủm tỉm “chết nhé, có em nào gọi, tên chị em kia kìa... Trả lời đi...”. Đang mải ngó xe pháo vùn vụt nơi các làn đường đang phân chia nhánh, tôi không phản ứng gì ngay...
Lấy sang được đường nhánh bên trái rồi… thở phào. Xe cộ chỗ vừa rồi vi vút cứ như lũ máy bay sắp cất cánh vậy!
“Điện thoại vẫn đang réo kìa, anh trả lời đi!”
“Thôi, để chốc nữa thư thả gọi lại cũng được, mình đang đi đường.”
“Giấu em nào a...”
“Đây là mẹ anh gọi đấy.”
“Ơ, em thấy chỉ hiện tên không thôi cơ mà.”
“Đúng vậy.”
“Thật á!? Phịa! Ở Việt Nam chẳng ai lại ghi tên bố, tên mẹ, tên ông, tên bà trống không trên danh bạ máy như thế đâu! Phạm thượng chết! Người ta chỉ ghi ‘bố’, ‘mẹ’, ‘ông’, ‘bà’ trên
danh bạ, thế thôi!”
Tôi mỉm cười “thế mỗi người có tên riêng để mà làm gì nào? Chỉ để khai báo cho công an thôi à?”
“Anh phức tạp lắm!” - kèm theo cú đấm không hề nhẹ vào vai...
... Chúng tôi đã rời đường cao tốc, rẽ về đường miền quê yên ả rực ánh nắng vàng.
**
Các bạn đọc báo sẽ thấy truyền thống “lửng tên” tỏa khắp ở xứ sở. “Nước ta” thay cho “Việt Nam”, “làng ta” thay cho… đôi khi quên cả tên rồi, “chủ tịch ta”, “thủ tướng ta”, “bộ trưởng ta”, “người phát ngôn ta”… Có cả một số bài báo mà từ đầu đến cuối chỉ thấy chữ “thủ tướng”, thường lại còn được viết hoa lên nữa “cho nó đẹp”, và nếu không soi tìm ngày tháng của những bài báo này và không sành sỏi lịch sử về các vĩ nhân Việt Nam đương đại thì không thể nào biết “thủ tướng” đây là ngài nào.
Chuyện này, đừng đổ lỗi cho nền kiểm duyệt, những nhà báo đó nhé.
Tất nhiên, nền tảng của câu chuyện này sâu xa hơn như thế rất nhiều.
**
Ngày trước nữa, có những trường hợp nhiều đứa trẻ chỉ biết tên ông, tên bà của mình một khi… dự đám tang của ông, của bà, buồn và tiếc thay… Suốt cả thời thơ ấu, chúng chỉ biết gọi “ông”, gọi “bà” khi ở trong nhà, và lúc ra ngoài thì được hỏi, và tự gọi “ông cháu”, “bà cháu”. Đôi khi mấy ông bà có được gọi tên đi chăng nữa, thì lại là những cái “tên gọi thay” của con giai đầu của ông, của bà… thậm chí của cháu giai đầu… Kể ra gần đây thì tên tuổi của các cụ cũng đã có rõ ràng dần hơn lên vì chữ nghĩa đã được phổ cập hơn, giấy tờ hành chính đã nhiều nhặn hơn.. Tuy nhiên việc sử dụng tên tuổi vẫn là một câu chuyện khác.
Chuyện gì được ẩn sau hiện thực này?
Trong một gia đình người Việt, thường là đại gia đình nhiều thế hệ và họ hàng, người ta đặt giá trị quan trọng nhất là cái “tôn ti trật tự”, và làm sao cư xử với cái tôn ti đó. Cái tôn ti đó là căn yếu, là “cực kì quan trọng”, là “không thể nhầm”, vì nó xác định “địa vị” của một người trong cái nhà đó, và từ địa vị đó, một “thân phận” được chia cho người đó. Địa
vị-thân phận này không chỉ quyết định vấn đề “quyền lợi”, nó còn quyết định luôn cả vấn đề “chân lý”: trên đúng, dưới sai.
Về triết học, trong một gia đình cổ truyền không tồn tại “cá nhân”. Chỉ có những yếu tố đã được định vị như là “địa vị” và cùng với chúng là những “thân phận” bị qui định, và mỗi con người sẽ được bắt vít ứng vào những yếu tố đó. “Địa vị-thân phận” đó vững bền và chắc chắn như những chiếc đinh được đóng sâu mãi, sâu mãi vào “bức tường gia đình”, không ai đặt câu hỏi hoặc có quyền đặt câu hỏi về chúng, mấy vị chữ nghĩa thì gật gù rằng đấy là “đạo”. “Địa vị-thân phận” khuyến kéo đầu óc con người về phía “thực hiện thế nào” để thực thi tập tục, chứ không bao giờ mời gọi người ta về phía lựa chọn “làm thế này, hay bỏ, hay làm khác đi”.
Khi bạn bước vào bậc cửa của một gia đình Việt, công việc quan trọng nhất của bạn không phải là “biết tên” những người trong gia đình ấy - thậm chí bạn không có quyền biết tên những người ở “vị thế trên cao” trong nhà; mà là biết ra cái cấu trúc tôn ti “địa vị-thân phận” trên dưới ở trong nhà ấy như thế nào. Bạn sẽ gọi mỗi người trong nhà theo cái tôn ti ấy, như thế là cần-và-đủ, những “cụ”, “ông”, “bà”, “bác”, “cô”, chú”, “anh”, “chị”, “em”, “cháu”, “chắt”… Cẩn thận: có những người rất ít tuổi nhưng lại có thể là “ông”, là “bà” trong đại gia đình đó do họ thuộc về “nhánh trên” của đại gia đình.
Bạn thưa gửi với một người giờ đây không phải là thưa gửi trực tiếp với chính người đấy, mà là bạn thưa gửi với cả đại gia đình của người đấy, thông qua người đấy! Mỗi người trong gia đình là một nhân viên, một “tùy viên sứ quán” với các chức vụ tùy theo của “quốc gia gia đình” ấy.
Tiếng Việt không “chia động từ”, nhưng “chia ngôi thứ tôn ti” là điều vô cùng căn bản, chia chưa xong thì chưa bắt đầu được giao tiếp, mà chia hỏng thì là tai nạn.
**
Phức tạp quá ư? Chuyện đâu đã hết. Như thế, vẫn còn là đơn giản.
Mỗi lần bạn quay lại một gia đình đã quen, bạn phải thắp hết các giác quan của mình lên để mà nghe ngóng cho ra cái cấu trúc địa vị-thân phận của gia đình ấy có biến động không, nếu có thì ra sao.
Nói ví dụ, cặp vợ chồng son nọ bữa nay mới có một em bé đầu ra đời.
Cái gì xảy ra? Có thể rằng đó là một cuộc “cách mạng vĩ đại” đã xảy ra trong gia đình này.
Đó là việc tất cả các nhân viên của cả nhà đã “lên chức”. “Ông”, “bà” đã thành “cụ” và ... “cụ”. Hai “bác” đã thành “ông” và “bà”. “Anh”, “chị” đã thành “bác” và… “bác”… Bạn phải thay đổi toàn bộ cách gọi quen thuộc của bạn với những người trong gia đình này, và kể cả… bạn phải tự gọi xưng lại chính mình cho tương hợp, đây là một vấn đề… nghiêm túc.
Tại sao như vậy?
Vì đó là cách thức duy nhất để bảo tồn các địa vị-thân phận trong một nhà, trong hoàn cảnh mới.
Bí quyết là gì? Trong một nhà người ta lấy cái địa vị-thân phận thấp nhất trong nhà mới nảy sinh, rồi qui chiếu các địa vị-thân phận cũ vào đó để mà thiết lập lại địa vị-thân phận mới. Để ví dụ, quan hệ “mẹ” - “con” vốn là quan hệ trực tiếp trước đây, thì nay vì “con” mới đẻ em bé nên quan hệ “mẹ” - “con” cũ từ nay đã bị giãn cách, đã bị gián tiếp hóa, trở thành quan hệ “bà”- “mẹ”, một quan hệ từ nay luôn luôn bị đi vòng qua cái địa vị-thân phận thấp nhất trong nhà mới nảy sinh. Trong hiện sinh này, con người bị mất đi các mối quan hệ trực tiếp giữa các cá nhân, các mối quan hệ ấy bị gián tiếp hóa vì các cá nhân đó bị xoá thêm một lần. Và cứ mỗi một thế hệ được sản sinh thêm ra thì các mối quan hệ vốn có càng trở nên gián tiếp hóa thêm ra, “xa cách thêm ra”.
Nói chuyện có lần tôi mời một bạn trẻ đến sửa lại căn phòng nhà. Lúc rảnh tay chuyện trò con cà con kê thế nào rồi bạn ấy kể “em tuy ít tuổi, nhưng ở quê em, em có một đứa cháu nay đã gần sáu mươi tuổi, nó làm giáo sư tiến sĩ ở tỉnh, nó phải gọi em là ông trẻ”. Trong giây phút này, bạn ấy chợt như thay đổi hoàn toàn thân phận mình, rất hăng hái… “mỗi lần ngồi ăn giỗ họ ấy à, em chỉ cần liếc mắt một cái thôi, là nó phải giang hai tay ra đón lấy bát em, đon đả ‘để cháu xới cho ông ạ’” - trong phút này ánh mắt bạn ấy nhìn tôi như chính là đứa con đứa em của đứa cháu họ gần sáu mươi của bạn ấy.
**
Sự sùng bái tôn ti trật tự trong nhà là một thứ áp bức đè nén “tự nhiên” mà người ta không ý thức ra nữa, thậm chí còn được tôn vinh, nó khuyên dụ người ta phủ nhận cách thức nhìn nhận mỗi cá nhân như một nhân cách độc lập và tự do, với những phẩm chất gì, năng lực gì, đức hạnh gì, nó chỉ giục người ta nhăm nhe soi mói vào “địa vị-thân phận” của mỗi người, cái được xem như “cốt yếu” mà thôi. Từ trong môi trường này mà mỗi đứa trẻ Việt lớn lên, và cái mà nó được nền tập tục này hướng dẫn cho đương nhiên là nhãn quan “địa vị-thân phận” chứ không phải là những cá nhân tự do với các năng lực và phẩm chất riêng tư. Nạn say mê tước vị đã được vun xén kĩ càng, bằng một cách vô cùng “tinh tế” từ đây.
Tất cả những tập tục rối rắm này không chịu dừng ở bậu cửa trong nhà.
Trong một quốc gia cổ truyền, luật lệ trong nhà ngập tràn ra làng, ra hè phố. Nói về triết học, “quốc gia cổ truyền” là “quốc gia” đang rục rịch hình thành, rất chậm chạp, rất lâu la, chả có gì để ảo tưởng. “Quốc gia” cổ truyền chỉ là dạng liên kết lan tỏa khá lộn xộn tùy hứng giữa các nhà, các làng, lúc thì mạnh lên, lúc thời rời rạc cát cứ, tuy nhiên trong xu hướng dài hạn thì liên kết ấy sẽ mạnh dần dà lên, nhất thống dần dà lên.
Vậy nên ở bên ngoài bậu cửa mỗi nhà chúng ta cũng “tự nhiên” có một xã hội na ná như thế, một xã hội khuyến dụ sự bon chen để làm sao leo lên được cái thang “địa vị-thân phận”, dẫu là nhiều cái thang ấy nhiều khi chỉ là hoàn toàn hư danh. Cái tên riêng nơi công quyền rồi thì cũng như thế thôi, không quan trọng, cứ “sếp” (to), “sếp” (nhỡ), “sếp” (vừa), “sếp” (nhỏ) là xong, thậm chí cũng tránh gọi luôn tên riêng với “sếp” (to), “sếp” (nhỡ)… Tất cả đều được quy suy ra vòng qua cái địa vị-thân phận thấp nhất… là “dân”, “dân” thì còn dưới cả “dân phòng”, “dân vệ”, “dân binh”...
Người Việt bước ra đời cảm thấy nếu mình không có một cái chức gì, không có một cái tước gì để khoác lên mình, mà chỉ có độc mỗi cái tên riêng của mình, thì nào khác gì mình tồng ngồng ở truồng vậy.
Cho nên các chức vụ cứ thế mà phải tự được nhân lên, để còn trao cho nhau, cho bớt trống trải. Không có chức gì tước gì nữa, thì ít nhất cũng có cái bằng khen, giấy khen, danh hiệu, vân vân và vân vân. Giới thiệu ai mà không có tước có vị thì nghe thật là nhạt mồm nhạt miệng, không ai muốn nghe cho phí tai.
Xã hội hão huyền háo danh có nền tảng thật là sâu xa, và thật là bền vững.
**
Tiếc thay, nhiều người Việt không hiểu rằng cái tên riêng của mình mới là điều vừa độc đáo vừa lớn lao, nó độc đáo và lớn lao đến đâu thì tùy thuộc vào những phẩm chất của chính riêng mình.
Cái tên “Nguyễn Du” thả hồn Kiều là tự đủ, không tước vị gì so bì được.
Cái tên “Lỗ Tấn” tạc hồn AQ là tự đủ, không hàm phẩm gì đáng để khoác vào thêm.
**
Con người cá nhân Việt, xã hội Việt rồi sẽ phải lớn lên, các giá trị của tự do, tài năng và phẩm hạnh cá nhân rồi sẽ phải được tôn thờ và phát triển.
Đống các hão danh rồi sẽ được tâm hồn Việt vui vẻ nâng niu đem cất chúng vào bảo tàng dân tộc học.
Nguồn: Hoàng Hồng Minh - Tia Sáng
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.