Cảnh đời một quái vật kép

08:49 30/10/2014

VLADIMIR NABOKOV

Vài năm trước, bác sĩ Fricke có đưa Lloyd và tôi một câu hỏi mà giờ đây tôi sẽ thử trả lời.

Nhà văn Vladimir Nabokov - Ảnh: internet

Với nụ cười mơ màng vì sự thích thú thuộc về khoa học, ông vuốt ve dải sụn béo gắn kết chúng tôi - omphalopagus diaphragmo-xiphodidymus, như Pancoast từng đặt tên cho một ca tương tự - và muốn biết liệu chúng tôi có thể nhớ lại lần đầu tiên mỗi đứa, hoặc cả hai, nhận thức được tính khác thường của thân phận và định mệnh mình hay không. Tất cả những gì Lloyd có thể nhớ là cái cách mà ông ngoại Ibrahim (hoặc Ahim, hoặc Ahem - những mớ âm đục khó chịu với thính giác ngày nay!) thường sờ mó cái mà bác sĩ sờ mó và gọi nó là chiếc cầu vàng. Tôi chẳng nói gì.

Tuổi thơ chúng tôi trôi qua ở đỉnh một ngọn đồi màu mỡ nằm trên biển Đen, tại trang trại gần Karaz của ông ngoại chúng tôi. Con gái út của lão, đóa hồng phương đông, viên ngọc trai của Ahem tóc bạc (nếu thế thì thằng già vô lại ấy lẽ ra phải chăm nom cô tốt hơn) đã bị ông thân sinh vô danh của chúng tôi cưỡng hiếp trong một vườn cây ăn quả ven đường và đã chết ngay sau khi sinh chúng tôi - do quá đỗi khiếp sợ và buồn đau, theo như tôi hình dung. Một loạt lời đồn đại nhắc đến một gã bán rong người Hung-ga-ry; lời đồn khác thiên về một gã sưu tập chim người Đức hoặc một thành viên nào đó trong đoàn thám hiểm của gã - nhiều khả năng nhất là người nhồi bông thú. Các bà dì da màu, nặng trĩu trang sức, mặc đồ rộng thùng thình đượm mùi tinh dầu hoa hồng và thịt cừu, chăm lo với thái độ thích thú ma quái các nhu cầu thời thơ ấu quái dị của chúng tôi.

Các ngôi làng lân cận sớm nghe được tin kinh hoàng này và bắt đầu cử đến trang trại chúng tôi những kẻ hiếu kỳ lạ mặt khác nhau. Vào các ngày lễ hội, có thể nhìn thấy họ lết lên sườn đồi, như những người hành hương trong các bức tranh màu sắc rực rỡ. Có một mục phu cao hai mét mốt, một người đàn ông nhỏ con đầu hói đeo kính, các quân nhân, và những chiếc bóng kéo dài của những cây bách. Bọn trẻ con cũng đến, vào mọi lúc, và bị các cô bảo mẫu ganh ghét của chúng tôi xua đi; nhưng gần như ngày nào cũng có một thanh niên mắt-đen, tóc-cắt-ngắn nào đó, mặc quần phai màu lam với những miếng vá thẫm, tìm được cách luồn qua các cây sơn thù du, cây kim ngân, cây Giu-đa vặn vẹo, vào khoảnh sân lát đá cuội có vòi phun nước cũ nhớt nhát nơi Lloyd cùng Floyd bé bỏng (hồi ấy chúng tôi còn có những cái tên khác, đầy ắp khí âm của quạ - nhưng chẳng thành vấn đề) ngồi lặng lẽ nhai mơ khô dưới bức tường sơn trắng. Sau đó, đột nhiên chữ H biến thành chữ I, số hai La Mã thành một, cây kéo thành con dao.

Đương nhiên không thể so sánh giữa va chạm nhận biết này, dù cho nó từng gây náo loạn đến thế nào, với cú sốc cảm xúc mà mẹ của tôi đã nhận (nhân thể, có niềm hạnh phúc thuần khiết biết bao trong việc sử dụng cẩn trọng cái từ sở hữu số ít này!). Bà hẳn phải ý thức được là bà đã sinh ra một cặp đôi; nhưng khi bà biết, mà chắc chắn bà đã biết, rằng hai đứa bé song sinh bị nối liền thành một - thì lúc đó bà đã trải qua những gì nhỉ? Với loại họ mạc thiếu kiềm chế, dốt nát, mê đưa chuyện vây quanh chúng tôi, lũ người nhà to mồm ngay bên kia cạnh chiếc giường xáo lộn của bà, rõ ràng là, đã ngay lập tức thông báo cho bà rằng có điều gì đó bất thường khủng khiếp xảy ra; và có thể chắc chắn rằng các chị của bà, trong cơn cuồng điên hoảng sợ và xót thương, đã cho bà thấy đứa bé kép. Tôi không định nói là người mẹ không thể yêu thương một thực thể kép như vậy - và nhờ tình yêu ấy mà quên được những giọt sương tăm tối từ nguồn gốc vô đạo của nó; tôi chỉ nghĩ rằng sự pha trộn giữa cảm giác kinh hãi, lòng thương, cùng tình mẹ đã vượt quá sức bà. Cả hai thành phần tập kép, trước đôi mắt đăm đắm của bà, là các thành phần nhỏ xinh, khỏe mạnh, có lông tơ vàng óng mượt trên những cái sọ tím-hồng, và những cái tay cái chân hình dạng xinh xẻo như được làm bằng cao su, cử động như các chi của con thú biển lạ kỳ nào đó. Mỗi đứa bình thường thấy rõ, nhưng gắn với nhau thì chúng lại tạo thành hình một quái vật. Quả thật, có gì đó kỳ lạ khi nghĩ rằng sự hiện diện của một giải mô đơn thuần, một lát thịt không dài hơn nhiều so với gan cừu non, lại có thể biến niềm vui, sự hãnh diện, dịu dàng, tình yêu say đắm, lòng biết ơn trước Chúa thành nỗi kinh sợ và tuyệt vọng.

Trong hoàn cảnh chúng tôi thì mọi thứ đơn giản hơn nhiều. Người lớn quá khác chúng tôi về mọi phương diện để có thể có bất cứ sự tương đồng nào, nhưng vị khách cùng tuổi đầu tiên đã là một khám phá dịu êm đối với tôi. Trong lúc Lloyd bình thản ngắm cậu bé đang khiếp sợ tầm bảy hoặc tám tuổi, kẻ đang chăm chú nhìn chúng tôi từ dưới một cây sung nổi bướu và dường như cũng đang nhìn chăm chú, tôi còn nhớ là đã nhận thức trọn vẹn sự khác biệt cốt yếu giữa kẻ mới đến và tôi. Cậu buông chiếc bóng ngắn màu xanh lam lên mặt đất, và tôi cũng làm như thế; nhưng thêm vào bạn đồng hành sơ sài, bẹt dí, hay thay đổi ấy, kẻ mà cậu với tôi có được nhờ ơn mặt trời và là kẻ biến đâu mất trong thời tiết âm u, tôi còn sở hữu chiếc bóng khác nữa, một ánh phản chiếu rõ như thể sờ mó được của chính nhục thể bản thân tôi, mà tôi luôn có bên mình, phía trái, trong khi vị khách của tôi đã xoay xở bằng cách này cách khác để đánh mất chiếc của mình, hoặc đã cởi được nó ra và để ở nhà. Lloyd với Floyd là một thực thể liên kết trọn vẹn và bình thường, cậu ấy thì không. Nhưng, để làm sáng tỏ những vấn đề này một cách triệt để như chúng xứng đáng được như vậy, có lẽ tôi cần nói đôi điều về các ký ức sớm hơn nữa. Trừ khi xúc cảm tuổi trưởng thành đã làm hoen ố những gì đã qua, tôi nghĩ tôi có thể chứng thực các hồi tưởng về một sự ghê tởm mờ nhạt nào đó. Do bị ghép đôi phía đằng trước, nên lúc đầu chúng tôi nằm mặt đối mặt, nối kết tại cái rốn chung, còn mặt tôi, trong những năm tồn tại đầu tiên ấy, luôn bị cọ quẹt bởi cái mũi cứng và đôi môi ướt của người anh em sinh đôi. Xu hướng ngửa đầu ra sau và ngoảnh mặt xa nhau nhiều nhất có thể chính là phản ứng tự nhiên với các tiếp xúc gây khó chịu ấy. Tính mềm dẻo tuyệt diệu của dải liên kết cho phép chúng tôi có thể tương hỗ giả lập một tư thế ít nhiều có vẻ sát cánh bên nhau, và lúc học đi thì chúng tôi bước lạch bạch loanh quanh theo tư thế kề vai sát cánh này, cái tư thế chắc hẳn có vẻ miễn cưỡng hơn nó thật sự là, và tôi cho rằng, nó làm cho chúng tôi nhìn y như một cặp chú lùn say xỉn đang dựa vào nhau. Suốt một thời gian dài, khi ngủ, chúng tôi cứ gắng quay lại tư thế bào thai; song mỗi lần sự bất tiện mà nó gây ra làm chúng tôi thức giấc, thì chúng tôi lại ngật mặt ra xa, ngoái đầu một cách kinh tởm, với tiếng rền rĩ kép.

Tôi khẳng định rằng, vào lúc lên ba hay bốn tuổi, các cơ thể chúng tôi láng máng không ưa mối liên kết khó xử của chúng, trong khi tâm trí chúng tôi lại không thắc mắc về tính bình thường của nó. Sau đó, trước khi chúng tôi có thể thầm nhận thức thấy các mặt hạn chế của nó, thì trực giác nhục thể đã khám phá ra cách làm dịu chúng, và về sau chúng tôi hầu như không nghĩ đến chúng nữa. Mọi chuyển động của chúng tôi trở thành một sự thỏa hiệp cẩn trọng giữa chung và riêng. Mẫu hành vi được gợi lên bởi ham muốn thôi thúc qua lại lẫn nhau nọ kia đã tạo nên một dạng phông nền xám xịt, dệt phẳng phiu, có tính khái quát mà trên đó, cơn bốc đồng riêng biệt, của cậu ấy hoặc của tôi, bám theo một tiến trình sáng sủa hơn hoặc sắc nét hơn; nhưng (được dẫn lối, nói sao nhỉ, bởi nếp uốn lượn của họa tiết phông nền) nó không bao giờ đi ngược lại được sự nối kết chung hoặc ý muốn bất chợt của kẻ song sinh kia.

Hiện giờ tôi chỉ nói về tuổi thơ, khi tự nhiên chưa thể cho phép chúng tôi hủy hoại thứ sinh lực mà chúng tôi đã rất khó khăn mới giành được bằng bất cứ mâu thuẫn nào giữa hai đứa. Vào những năm sau, tôi từng có dịp hối tiếc rằng chúng tôi đã không bỏ mạng hoặc không được mổ tách ra, trước lúc chúng tôi qua giai đoạn khởi thủy ấy, khi mà một nhịp điệu hiện diện mãi mãi, tựa như tiếng vỗ tum-tum xa xăm trong khu rừng thẳm của hệ thần kinh chúng tôi, đơn độc chịu trách nhiệm về việc điều khiển các hoạt động của chúng tôi. Chẳng hạn, lúc một đứa chúng tôi sắp cúi người để tự đoạt lấy một bông cúc dễ thương, còn đứa kia, đúng ngay khoảnh khắc ấy, lại đang rướn lên để hái một trái sung chín, thì sự thành công cá nhân phụ thuộc vào việc chuyển động của đứa nào ngẫu nhiên phù hợp với phách nhấn hiện thời của nhịp điệu chung và liên tục của chúng tôi, và rồi thì, với một cái rùng mình cực ngắn, tựa như mắc chứng múa giật, các cử chỉ ngắt quãng của một đứa song sinh sẽ bị nuốt chửng và bị hòa lẫn vào những gợn sóng được làm cho phong phú hơn thuộc hành động đã hoàn thành của đứa kia. Tôi nói “được làm cho phong phú hơn” bởi lẽ bóng ma của bông hoa không hái được ấy dường như vì lý do nào đó cũng ở nơi đó, thổn thức đập giữa các ngón tay đang khép lại trên trái cây kia.

Có lẽ đã có giai đoạn dài hàng tuần hay thậm chí hàng tháng, khi nhịp đập dẫn dắt hay ở bên Lloyd nhiều hơn nhiều so với bên tôi, sau đó có lẽ đến giai đoạn khi tôi lên được ngọn sóng; nhưng tôi không thể nhớ lại bất cứ thời gian nào vào thời thơ ấu khi trắc trở hoặc thành công ở những chuyện này đã gợi lên trong cả hai đứa nỗi oán giận hay niềm kiêu hãnh nào.

Tuy nhiên, đâu đó trong tôi, hẳn vẫn có tế bào nhạy cảm nào đó kinh ngạc trước sự thật lạ lùng về một sức mạnh đã có thể đột ngột cuốn tôi xa khỏi đối tượng của một ham muốn bất chợt và kéo tôi tới những thứ khác, những thứ chẳng ai ham muốn, những thứ đã len vào phạm vi nguyện ước của tôi để tránh bị vươn đến và bọc lại một cách cố ý bởi các xúc tu của nó. Vì vậy, trong lúc quan sát đứa trẻ tình cờ này nọ đang quan sát Lloyd và tôi, tôi nhớ là mình đã cân nhắc một vấn đề kép: thứ nhất là, không biết liệu trạng thái nhục thân đơn độc thì có thể có nhiều lợi thế hơn trạng thái mà chúng tôi đang sở hữu hay không; và thứ nhì là, không biết liệu tất cả các đứa trẻ khác có đơn độc hay không. Lúc này, tôi chợt nghĩ rằng, những vấn đề rất hay làm tôi bối rối lại thường mang tính kép: có lẽ một dòng suy nghĩ của Lloyd đã thấm vào tâm trí tôi và một trong hai vấn đề gắn kết với nhau đó thuộc về cậu ấy.

Khi ông ngoại tham lam Ahem quyết định trưng chúng tôi ra cho khách xem để thu tiền, giữa đám đông đến nơi ấy luôn có thằng nhãi ranh háo hức nào đó muốn nghe chúng tôi nói chuyện với nhau. Như vẫn xảy ra với các trí óc thô sơ, gã yêu cầu là tai gã phải chứng thực được những gì mắt gã nhìn thấy. Mấy người bà con thúc ép chúng tôi làm vừa lòng các yêu cầu như thế và không thể hiểu tại sao lại phải khổ sở đến vậy vì chúng. Chúng tôi có thể vin cớ nhút nhát; nhưng sự thật thì chúng tôi chẳng bao giờ thật sự nói chuyện với nhau, thậm chí cả khi ở một mình, bởi những tiếng càu nhàu đứt quãng ngắn ngủn từ lời trách móc hiếm hoi mà chúng tôi thỉnh thoảng trao đổi (chẳng hạn, khi một đứa vừa mới cắt vào chân nó và đang phải băng bó, còn đứa kia muốn đi lội suối) thật khó có thể cho là cuộc đối thoại. Giao tiếp về những cảm giác đơn giản thiết yếu được chúng tôi thực hiện mà chẳng cần lời: những chiếc lá rụng lênh đênh trôi theo dòng máu chúng tôi chia sẻ cùng nhau. Những ý nghĩ mong manh cũng xoay xở tìm cách lẻn qua và chu du giữa chúng tôi. Những thứ phong phú hơn được từng đứa giữ lại cho riêng mình, nhưng thậm chí lúc ấy cũng xảy ra những hiện tượng dị thường. Đấy là nguyên nhân tại sao tôi nghi ngờ rằng bất chấp bản tính điềm tĩnh của cậu ấy, Lloyd cũng vật lộn với cùng những thực tại mới, những thứ làm tôi bối rối. Khi lớn lên, cậu ấy lãng quên nhiều điều. Tôi thì chẳng quên gì.

Công chúng không chỉ mong ngóng chúng tôi nói chuyện, họ còn muốn chúng tôi chơi đùa với nhau. Lũ đần! Họ kiếm được khá nhiều niềm vui từ việc chúng tôi đấu trí về cờ đam hoặc muzla. Tôi tin rằng giả dụ chúng tôi tình cờ lại là cặp sinh đôi khác giới tính thì có lẽ họ sẽ bắt chúng tôi phải phạm tội loạn luân ngay trước mặt họ. Nhưng vì các trò chơi tương tác cũng không quen thuộc với chúng tôi hơn các cuộc chuyện trò, nên chúng tôi phải chịu đựng nỗi đau khó thấy khi buộc phải thực hiện đến cùng các cử động gò bó để ném qua ném lại một quả bóng ngay tại nơi nào đó giữa xương ức hoặc giả bộ như đang cố giành nhau một cái que. Chúng tôi thu hút được những tràng vỗ tay điên cuồng bằng cách choàng tay qua vai nhau chạy quanh sân. Chúng tôi biết cả nhảy và quay tròn.

Một người buôn bán biệt dược, một gã nhỏ con hói đầu mặc áo bờ lu Nga màu trắng-bẩn, biết bập bõm chút tiếng Thổ và tiếng Anh, dạy chúng tôi vài câu bằng các thứ tiếng này; sau đó chúng tôi phải trình diễn khả năng của mình cho đám khán giả bị mê hoặc ấy xem. Những bộ mặt hừng hực của họ vẫn còn truy đuổi tôi trong những cơn ác mộng, bởi lẽ chúng xuất hiện mỗi khi tay đạo diễn giấc mơ của tôi cần diễn viên phụ. Tôi lại thấy gã mục phu khổng lồ mặt màu đồng mặc bộ quần áo nhiều màu rách tả tơi, những quân nhân đến từ Karaz, ông thợ may lưng gù chột mắt người Ác-mê-ni (một quái vật tự thân), những cô gái cười rúc rích, những bà già thở dài, những đứa trẻ con, gã thanh niên mặc quần áo miền Tây - những ánh mắt thiêu đốt, những chiếc răng trắng ởn, những cái mồm há hốc đen ngòm; và, đương nhiên cả ông ngoại Ahem, cùng cái mũi vàng ngà và bộ râu len xám, điều khiển buổi diễn hoặc đếm những tờ tiền giấy bẩn thỉu và thấm ướt ngón tay cái to tướng. Nhà ngôn ngữ học, đầu hói áo bờ lu thêu, ve vãn một trong số các bà dì tôi nhưng vẫn không ngừng quan sát Ahem một cách đầy ganh tị qua cặp kính gọng thép.

Vào quãng chín tuổi, tôi đã biết rất rõ rằng Lloyd và tôi là những quái vật hiếm có nhất. Nhận thức này không khơi gợi trong tôi bất cứ niềm tự hào đặc biệt nào lẫn nỗi xấu hổ đặc biệt nào; nhưng, lần nọ, một mụ đầu bếp cuồng loạn, một phụ nữ có ria mép, người hết sức yêu quý chúng tôi và xót thương cảnh ngộ chúng tôi, tuyên bố với một lời thề tàn tệ rằng mụ sẽ, luôn và ngay, lạng chúng tôi ra làm hai bằng con dao sáng loáng mà mụ thình lình huơ lên (mụ ngay lập tức bị ông ngoại cùng một trong các ông chú nhặt mới toanh của chúng tôi chế ngự); và sau vụ lôi thôi này tôi thường được an ủi bởi một mộng ước mơ màng biếng nhác, tưởng tượng mình không biết làm sao mà lại được tách ra khỏi Lloyd đáng thương, còn cậu ấy không biết làm sao mà vẫn cứ kẹt lại ở thời yêu quái của mình.

Tôi không quan tâm đến vụ con dao, và dẫu sao chăng nữa thì cái lối chia cắt ấy vẫn còn rất mơ hồ; nhưng tôi hình dung một cách hết sức rõ rệt về sự tan biến đột ngột những xiềng xích của mình, cùng cảm giác nhẹ nhõm và lõa lồ sẽ xảy ra sau đó. Tôi hình dung tôi leo qua hàng rào - một hàng rào với những chiếc đầu lâu được tẩy trắng của trại súc vật đã đặt chúng lên các đầu cọc rào - và thả bộ xuống dần về phía bờ biển. Tôi hình dung tôi nhảy qua hết tảng đá mòn này đến tảng đá mòn khác và nhào xuống biển nhấp nhánh, trườn ngược về bờ và chạy tung tăng xung quanh cùng những đứa trẻ trần truồng khác. Tôi mơ về điều này ban đêm - thấy tôi bỏ trốn khỏi ông ngoại và đem theo mình một món đồ chơi, hay con mèo con, hay con cua nhỏ xíu mà tôi riết chặt vào bên thân trái. Tôi thấy chính mình gặp Lloyd đáng thương, cậu xuất hiện trong giấc mơ của tôi và tập tễnh bước theo, tuyệt vọng nối người với một đứa trẻ sinh đôi tập tễnh vào lúc tôi tự do nhảy múa quanh chúng và vỗ lên những cái lưng khúm núm của chúng.

Tôi tự hỏi, không biết Lloyd có những ảo cảnh tương tự hay không. Bác sĩ cho là chúng tôi đôi khi hòa lẫn tâm tưởng khi mơ. Một buổi sáng xanh xám nọ, cậu ấy nhặt cái cành nhỏ lên và vẽ một con tàu ba buồm trên bụi. Tôi vừa thấy chính mình vẽ con tàu ấy lên bụi mờ ở giấc mơ mà tôi mơ đêm trước.

Chiếc áo choàng mục phu lụng thụng màu đen phủ lên vai chúng tôi, và, khi chúng tôi ngồi xổm lên nền đất, tất cả, ngoài đầu chúng tôi và tay Llyod, bị che khuất trong những nếp gấp xõa xuống của nó. Mặt trời mới mọc và không khí buốt giá tháng Ba tựa như những lớp băng bán trong suốt chồng lên nhau, xuyên qua chúng những cây Giu-đa cong queo đang nở hoa rậm rịt tạo ra các đốm nhòe nhoẹt màu hồng tía. Ngôi nhà dài, thấp, trắng đằng sau chúng tôi, chật ních những mụ béo và các ông chồng bốc mùi hôi hám của họ, đang ngủ mê mệt. Chúng tôi không nói không rằng; chúng tôi thậm chí không nhìn nhau, nhưng, quăng cành cây của mình ra xa, Lloyd choàng tay phải quanh vai tôi, như cậu vẫn luôn làm mỗi khi muốn cả hai đi nhanh; và cùng viền trang phục chung quét lê giữa những cây cỏ dại chết chóc, còn những viên sỏi cứ chảy dưới chân, chúng tôi tiến về phía lối mòn mọc đầy cây bách dẫn xuống bờ biển.

Đấy là lần đầu tiên chúng tôi thử thăm quan biển, nơi chúng tôi có thể nhìn thấy từ đỉnh đồi, nhấp nhánh sáng xa xa và nhàn nhã, âm thầm vỡ tan vào những tảng đá bóng loáng. Tôi không cần kéo căng ký ức mình tại điểm này để neo cuộc trốn chạy vấp váp của chúng tôi vào một chỗ ngoặt xác quyết trong định mệnh hai đứa. Vài tuần trước, vào ngày sinh nhật lần thứ mười hai của chúng tôi, ông ngoại Ibrahim bắt đầu đùa giỡn với ý tưởng gửi chúng tôi đi cùng đoàn ông chú mới nhất cho chuyến lưu diễn sáu tháng xuyên đất nước. Họ vẫn đang mặc cả về các điều khoản, và cãi vã thậm chí đánh nhau, mà Ahem vẫn trên cơ.

Chúng tôi sợ ông ngoại và ghét chú Novus. Có lẽ, theo cái lối đần độn tội nghiệp của mình (chẳng biết gì về cuộc sống, nhưng lơ mơ nhận thấy chú Novus đang ráng lừa bịp ông ngoại) chúng tôi cảm thấy có lẽ nên thử làm điều gì đó để ngăn ông bầu sô ấy lăn chúng tôi đi đó đi đây trong một nhà ngục di động, như lũ dã nhân hay bọn đại bàng; hay có lẽ chúng tôi đã bị thúc đẩy đơn thuần bởi ý nghĩ rằng đây là cơ hội cuối cùng để tận hưởng tự do nhỏ nhoi của mình và làm điều gì đó vẫn bị cấm ngặt; vượt qua hàng rào cắm cọc nào đó, mở cánh cổng nào đó.

Chúng tôi không gặp khó khăn nào trong việc mở cái cổng lung lay ọp ẹp ấy, nhưng không tìm được cách quay nó về lại vị trí cũ. Một con cừu trắng-bẩn, có đôi mắt hổ phách và con dấu đỏ như son vẽ trên cái trán phẳng và cứng, bám theo chúng tôi một lúc trước khi mất hút sau bụi sồi. Thấp hơn một chút nhưng vẫn còn cao hơn thung lũng, chúng tôi phải băng ngang con lộ bao quanh ngọn đồi và nối liền trang trại chúng tôi với đường cái chạy dọc theo bờ biển. Tiếng móng guốc bình bịch và tiếng bánh xe kèn kẹt chạy xuống chỗ chúng tôi; và chúng tôi thu mình lại, cả áo khoác cả mọi thứ, đằng sau bụi rậm. Khi tiếng ầm ầm lắng xuống, chúng tôi băng ngang đường và tiếp tục đi theo con dốc cỏ mọc um tùm. Biển bạc từ từ ẩn mình sau những cây bách và dấu tích của những bức tường đá cũ. Chiếc áo choàng đen bắt đầu có cảm giác rất nóng và nặng nhưng chúng tôi vẫn kiên trì núp dưới sự bảo vệ của nó, do sợ rằng nếu không thì ai đó tình cờ đi ngang qua có thể để ý thấy sự ốm yếu của chúng tôi. Chúng tôi thoát lên được đường cái, vài bước cách biển có-thể-nghe-rõ và ở đó, chờ chúng tôi dưới cây bách, là cỗ xe ngựa mà chúng tôi đã biết, một thứ nhìn như chiếc xe thồ trên những cái bánh cao, cùng chú Novus đang leo xuống khỏi thùng xe. Một con người nhỏ nhen, xảo quyệt, nham hiểm, tham vọng, bất lương! Vài phút trước đây, y nhìn thấy chúng tôi từ một trong những hàng hiên nhà ông ngoại và không thể cưỡng lại được sự cám dỗ từ việc lợi dụng vụ đào tẩu cho phép y cướp được chúng tôi một cách kỳ diệu mà không cần đến bất cứ vật lộn hay la hét nào. Vừa chửi hai con ngựa sợ sệt, y vừa thô bạo giúp chúng tôi vào xe. Y đẩy đầu chúng tôi xuống và dọa sẽ làm chúng tôi đau nếu chúng tôi cố kêu chiêm chiếp dưới chiếc áo choàng của mình. Tay Lloyd vẫn còn quàng quanh vai tôi, nhưng cú xốc mạnh thình lình của chiếc xe thồ đã giũ nó ra. Giờ thì bánh xe nghiến răng rắc và lắc lư lăn. Mất chút thời gian, chúng tôi mới nhận ra rằng gã đánh xe không đưa chúng tôi về nhà.

Hai mươi năm đã trôi qua từ buổi sáng xuân xám xịt ấy, nhưng nó còn được lưu giữ trong tâm trí tôi tốt hơn nhiều so với nhiều sự kiện xảy ra sau đó. Tôi cho nó chạy đi chạy lại trước mắt mình tựa một đoạn phim điện ảnh, như tôi đã từng thấy những nghệ sĩ múa rối vĩ đại làm khi duyệt lại màn kịch của họ. Vậy nên tôi duyệt lại mọi giai đoạn và tình huống và chi tiết ngẫu nhiên của cuộc đào tẩu chết yểu của chúng tôi - cú rùng mình khởi thủy, cái cổng, con cừu, con dốc trơn tuột dưới những cái chân vụng về. Với những con chim hét đã bị chúng tôi xua cho bay lên thì chúng tôi chắc hẳn đã phô ra một cảnh tượng lạ thường, với chiếc áo choàng đen ấy bao quanh người và hai cái đầu tóc xén trên những cần cổ gày gò ló ra khỏi áo. Những cái đầu quay qua quay lại, đầy cảnh giác, lúc cuối cùng thì, đã đến đường cái ven biển. Giả như vào đúng lúc ấy, một kẻ xa lạ thích phiêu lưu nào đó đặt chân lên bờ biển từ chiếc tàu trong vịnh, hẳn là hắn được trải nghiệm sự rộn ràng của một trạng thái bị mê hoặc cổ xưa khi thấy chính mình đối mặt với quái vật thần thoại hiền lành giữa cảnh tùng bách và đá trắng. Hắn sẽ tôn sùng nó, hắn sẽ để rơi những giọt lệ ngọt ngào. Nhưng, than ôi, chẳng có ai đón chào chúng tôi nơi đó ngoài kẻ lừa đảo bồn chồn ấy, kẻ bắt cóc nóng nảy ấy, một người đàn ông nhỏ con có gương mặt búp bê đeo cặp kính rẻ tiền, một mắt kính được gắn lại bằng đoạn băng.

Thiên Lương dịch  
(SH308/10-14)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.