Gabriel Garcia Marquez - Ảnh: ct.gov
Ngài gặp cô ở Rosal del Virrey, một ngôi làng hư cấu mà vào ban đêm là chiếc khăn quàng bí mật cho những con tàu của bọn buôn lậu; và ngược lại, vào thanh thiên bạch nhật trông giống như lỗ thoát nước vô dụng nhất trên sa mạc, đối diện với một mặt biển xấu và không có phương hướng và quá xa khỏi mọi thứ mà không ai đoán được rằng một người nào đó có khả năng thay đổi số phận của bất cứ ai sống ở đó. Thậm chí ngay cả cái tên của nó cũng là một kiểu khôi hài, vì cây hoa hồng duy nhất ở ngôi làng ấy đã bị xài mòn bởi chính nghị sĩ Onesimo Sanchez vào cùng buổi chiều khi ngài gặp Laura Farina. Đó là một điểm dừng không thể tránh khỏi trong chiến dịch tranh cử mà ngài thực hiện mỗi năm bốn lần. Các toa xe lễ hội đã đến nơi vào buổi sáng, sau đó đến các xe tải với những người da đỏ thuê mướn, những người được đem vào thành phố nhằm khuếch trương đám đông ở các buổi lễ công cộng.
Lần đầu tiên trong 12 năm, Nelson Farina không đi đón chào ngài nghị sĩ. Ông lắng nghe bài diễn văn từ chiếc võng lưới của ông giữa những phần còn lại của giấc ngủ trưa, dưới lùm cây mát mẻ của một ngôi nhà bằng ván không bào ông đã xây dựng lên với đôi bàn tay của cùng một dược sĩ mà với chúng ông đã quyến rũ và gia hình người vợ thứ nhất của ông. Ông đã trốn thoát khỏi Đảo Quỉ và xuất hiện ở Rosal del Virrey trên một con tàu chở đầy những con chim vẹt ngây thơ, với một người phụ nữ da đen xinh đẹp và báng bổ thần thánh mà ông tìm thấy ở Paramaribo mà với người này ông có một đứa con gái. Người vợ chết vì những nguyên cớ tự nhiên chẳng bao lâu sau đó và bà đã không chịu đựng số phận của người vợ kia, người mà những mảnh vụn của bà đã làm màu mỡ cho luống đất trồng bắp cải của bà, nhưng được chôn tất cả cùng với cái tên Hà Lan của bà trong nghĩa trang địa phương. Cô con gái thừa hưởng màu da và hình thể của bà cùng với đôi mắt vàng và kinh ngạc của cha nàng, và ông có lý do tốt đẹp để tưởng tượng rằng ông đang nuôi nấng người phụ nữ đẹp nhất trên đời. Kể từ khi ông gặp nghị sĩ Onesimo Sanchez trong chiến dịch tranh cử đầu tiên của ngài, Nelson Farina đã cầu xin sự giúp đỡ của ngài trong việc làm ra một tấm thẻ căn cước sẽ đặt ông ngoài tầm của pháp luật. Ngài nghị sĩ, trong một cái cách thân hữu nhưng quả quyết, đã từ chối. Nelson Sanchez không bao giờ chịu thua, và trong vòng vài năm, mỗi lần ông tìm ra cơ hội, ông sẽ lập lại lời yêu cầu của mình với một sự trông cậy khác nhau. Nhưng lần này ông ở lại trong chiếc võng của mình, kết án phải sống mục rửa trong cái hang nóng như thiêu đốt của những tên cướp biển. Khi ông nghe những tiếng hoan hô sau cùng, ông nhấc đầu lên, và nhìn xuyên qua những tấm ván của hàng rào, ông thấy mặt sau của trò hề, các đồ dùng sân khấu của các tòa nhà, khung sườn của những cái cây, những nhà ảo thuật đang đẩy con tàu xuyên đại dương chạy dọc đi. Ông gây gổ mà chẳng thù hằn gì. “Merde,” ông nói, “C’est le Blacamén de la politique.” (Cứt. Đó là bọn Blacamén của chính trị). Sau bài diễn văn, như phong tục, ngài nghị sĩ đi bộ vòng quanh các đường phố giữa âm nhạc và hỏa tiễn được bao vây bởi người dân của thành phố, những người kể cho ngài về những khó khăn của họ. Ngài nghị sĩ lắng nghe một cách tử tế và ông luôn tìm ra một cách nào đó để an ủi mọi người mà không phải làm cho họ bất cứ sự giúp đỡ cực nhọc nào. Một phụ nữ ngồi trên mái một ngôi nhà với sáu đứa con nhỏ nhất của mình cố làm cho nghe được giữa tiếng la hò và tiếng xe cứu hỏa. “Tôi không hỏi nhiều đâu, ngài nghị sĩ,” bà nói, “Chỉ một con lừa để kéo nước từ Suối của Người Treo Cổ.” Ngài nghị sĩ chú ý đến sáu đứa con ốm yếu của bà. “Chuyện gì xảy ra với chồng bà vậy?” “Anh ta đi kiếm vận may của mình ở đảo Arruba,” người phụ nữ trả lời chất phác, “và những gì anh ta tìm thấy là một phụ nữ nước ngoài, cái loại gắn kim cương vào răng ấy mà.” Câu trả lời mang lại một tràng cười. “Được rồi,” ngài nghị sĩ quyết định, “bà sẽ có con lừa của bà.” Một lát sau một người phụ tá của ông đem một con lừa tải hàng tốt đến ngôi nhà của người phụ nữ và trên mông đít nó có một khẩu hiệu của chiến dịch được viết bằng sơn không xóa được để không ai có bao giờ quên rằng nó là một quà tặng từ ngài nghị sĩ. Dọc theo quãng ngắn của dường phố, ngài làm những cử chỉ khác nhỏ hơn, và thậm chí ngài còn đưa một muỗng thuốc tây cho một người bệnh đã có cái giường của ông đưa ra cửa của ngôi nhà ông để ông có thể nhìn thấy ngài đi qua. Ở góc phố sau cùng, ngài thấy Nelson Farina trên chiếc võng, trông có vẻ tái mét và buồn bã, nhưng tuy vậy ngài nghị sĩ cũng chào ông mà không để lộ sự cảm động nào. “Hello, ông khỏe chứ?” Nelson Farina xoay mình trong võng và dìm ngài vào trong màu vàng hổ phách buồn rầu của cái nhìn của ông. “Moi, vous savez.” (Tôi à, các ông hiểu mà) ông nói. Con gái ông đi ra sau khi cô nghe tiếng chào mừng. Cô bận một cái váy da đỏ Guajiro rẻ tiền, bạc màu, đầu cô trang hoàng những cái nơ màu, và khuôn mặt cô được sơn như lớp bảo hộ chống lại ánh nắng, nhưng thậm chí trong tình trạng cần sửa chữa ấy thật khó tưởng tượng rằng từng có ai khác xinh đẹp như thế trên toàn thế giới. Ngài nghị sĩ thở không ra hơi. “Tôi sẽ bị trời đánh mất!” ngài thở trong nỗi kinh ngạc. “Chúa đã tạo ra những sinh vật điên cuồng nhất!” Đêm đó Nelson Farina ăn bận cho cô con gái y phục đẹp nhất của cô và gởi cô đến ngài nghị sĩ. Hai vệ sĩ trang bị súng trường gật đầu từ cái nóng ở ngôi nhà thuê ra lệnh cô đợi ở chiếc sopha duy nhất trong tiền sảnh. Ngài nghị sĩ ở phòng kế bên đang gặp gỡ những người quan trọng của Rosal del Virrey, những người mà ngài tụ tập lại để ca cho họ nghe những sự thật mà ông đã để ra ngoài bài diễn văn. Trông họ quá giống tất cả những người ngài gặp luôn ở tất cả các thành phố trong sa mạc đến nỗi thậm chí bản thân ngài nghị sĩ cũng đâm bệnh và mệt mỏi về cuộc họp đêm đều đều ấy. Áo sơmi ngài đẫm mồ hôi và ngài đang cố gắng làm khô nó trên thân thể ngài với cơn gió hiu hiu nóng từ một cái quạt điện đang kêu rồ rồ như một con ngựa bay trong cái nóng nặng nề của căn phòng. “Chúng ta, tất nhiên không thể ăn được chim giấy,” ngài nói, “Các ông và tôi đều biết rằng ngày hôm nay có cây cối và bông hoa ở cái đống phân ngỗng kia, ngày hôm nay có cá mòi thay vì là côn trùng trong những cái hố nước, rằng ngày hôm nay không những các ông mà tôi cũng chẳng có gì để làm ở đây cả, tôi tự làm mình minh bạch chưa nào?” Không ai trả lời. Trong khi ngài nói, ngài nghị sĩ xé một tờ giấy khỏi cuốn lịch và trang hoàng từ đó ra một con bướm giấy với hai bàn tay ngài. Ngài ném nó mà không có đích nhắm đặc biệt nào vào trong luồng không khí đang đến từ cái quạt và con bướm bay loanh quanh căn phòng sau đó đi ra ngoài qua cánh cửa mở một nửa. Ngài nghị sĩ tiếp tục nói với sự kiểm soát được hỗ trợ của sự đồng lõa của cái chết. “Do đó,” ngài nói, “Tôi không phải lập lại với các ông những gì các ông thực sự đã biết rất rõ: rằng cuộc tái tranh cử của tôi là một công việc tốt đẹp cho các ông hơn là cho tôi, bởi vì tôi được nuôi lớn bởi nước tù hãm và mồ hôi của người da đỏ, trong khi dân tộc các ông, ngược lại, kiếm sống dựa vào nó.” Laura Farina nhìn con bướm giấy bay ra. Chỉ có cô thấy nó vì các lính canh trong tiền sảnh đã thiếp ngủ trên các bậc cấp, ôm lấy súng trường của họ. Sau một vài vòng, con bướm lớn in bằng ốp sét trải cánh ra hoàn toàn, đập vào bức tường, và vướng luôn vào đó. Laura Farina cố dùng móng tay kéo nó ra. Một trong những người lính canh, kẻ thức giấc bởi tiếng hoan hô trong phòng kế bên, để ý đến cố gắng vô vọng của cô. “Nó sẽ không thoát ra được đâu,” hắn nói một cách buồn ngủ. Laura Farina lại ngồi xuống khi những người đàn ông bắt đầu đi ra khỏi cuộc hội kiến. Ngài nghị sĩ đứng ở ô cửa của căn phòng với bàn tay trên chốt cửa, và ngài chỉ nhận ra Laura Farina khi tiền sảnh đã trống trải. “Cô làm gì ở đây?” “C’est de la part de mon pere,” (Đây là chỗ của cha tôi) cô nói. Ngài nghị sĩ hiểu. Ngài quan sát những người lính canh đang ngủ, sau đó ngài quan sát Laura Farina, người mà sự trẻ đẹp còn đòi hỏi hơn cơn đau của ngài, và sau đó ngài quả quyết rằng cái chết đã tạo ra quyết định cho ngài. “Vào đây,” ngài bảo cô. Laura Farina đứng thần người ra trong ô cửa dẫn đến căn phòng: cả ngàn tấm chi phiếu ngân hàng đang bay lượn trên không trung, vỗ cánh như những con bướm. Nhưng ngài nghị sĩ tắt quạt và những tờ phiếu rơi xuống mà không có gió và đập vào đồ đạc trong phòng. “Cô thấy không,” ngài nói, mỉm cười, “ngay cả cứt cũng có thể bay.” Laura Farina ngồi xuống trên một cái ghế đẩu của học trò. Da dẻ cô bóng láng và chắc chắn, với cùng một sự cô đặc năng lượng mặt trời như dầu thô, tóc cô là bờm của một con ngựa cái trẻ, và đôi mắt lớn của cô còn sáng hơn cả ánh đèn. Ngài nghị sĩ dõi theo tia nhìn của cô và sau cùng nhận ra cây hoa hồng, vốn đã bị lu mờ bởi chất hóa tiêu. “Nó là một cây hoa hồng,” ngài nói. “Phải,” cô nói với chút ít ngỡ ngàng, “Tôi đã học được chúng là gì ở Riohacha.” Ngài nghị sĩ ngồi xuống trên một cái giường nhỏ của quân đội, nói chuyện về hoa hồng trong khi ngài cởi nút áo sơmi. Ở nơi mà ngài tưởng tượng trái tim ngài ở bên trong ngực áo ngài có một vết xăm của một tay cướp biển về một trái tim bị đâm xuyên qua bởi một mũi tên. Ngài ném cái áo sơmi ướt nước xuống sàn nhà và đề nghị Laura Farina giúp ngài cởi đôi giày ống ra. Cô quì gối xuống đối diện với cái giường. Ngài nghị sĩ tiếp tục quan sát cô, một cách suy tư, và trong khi cô tháo dây giày ra ngài thắc mắc không biết một trong chúng sẽ có kết thúc với vận rủi của cuộc gặp gỡ này hay không. “Cô chỉ là một đứa trẻ,” ngài nói. “Ngài có tin việc này không,” cô nói, “Tôi sẽ mười chín tuổi vào tháng Tám.” Ngài nghị sĩ trở nên chú ý. “Ngày gì?” “Ngày 11” cô nói. Ngài nghị sĩ cảm thấy tốt hơn. “Chúng ta đều thuộc sao Bạch dương,” ngài nói. Và mỉm cười, ngài nói thêm, “Là dấu hiệu của sự cô độc.” Laura Farina không để ý vì cô không biết phải làm gì với những chiếc giày. Ngài nghị sĩ, về phần mình, không biết làm gì với Laura Farina, vì ngài không quen với những cuộc tình bất ngờ và, hơn nữa, ngài biết rằng người trong tay có nguồn gốc của sự ô danh. Chỉ để có thời gian suy nghĩ, ngài giữ chặt Laura Farina giữa hai đầu gối ngài, ôm siết cô quanh ngực, và ngã lưng nằm xuống chiếc giường quân đội, sau đó ngài nhận ra cô trần truồng dưới chiếc áo dài, vì thân thể cô toát ra cái mùi đậm đà của con thú rừng núi, nhưng trái tim cô kinh sợ và da dẻ cô lộn xộn bởi một thứ mồ hôi lạnh buốt. “Không ai yêu thương chúng ta,” ngài thở dài. Laura Farina cố nói một điều gì đó, nhưng chỉ có đủ không khí cho cô thở. Ngài đặt cô bên cạnh ngài để giúp cô, ngài tắt đèn và căn phòng nằm trong bóng tối của cây hoa hồng. Cô buông bỏ mình cho những điều tốt lành của số phận cô. Ngài nghị sĩ mơn trớn cô một cách chậm rãi, lấy bàn tay ngài tìm kiếm cô, trần truồng chạm vào cô, nhưng ở nơi mà ngài mong tìm thấy cô, ngài đi qua một cái gì đó sắt thép trên đường tới. “Cô có cái gì ở đó vậy?” “Một ổ khóa,” cô nói. “Quái gì thế?” ngài nghị sĩ giận dữ nói và hỏi cái mà ngài cũng biết quá rõ, “Chìa khóa đâu?” Laura Farina cho ra một tiếng thở nhẹ nhõm, “Cha tôi có nó,” cô trả lời. “Ông bảo tôi nói với ngài hãy gởi một trong những người của ngài đi lấy nó và gởi đến cùng với ông một lời hứa viết tay rằng ngài sẽ sắp xếp tình hình của ông ấy.” Ngài nghị sĩ trở nên căng thẳng. “Đồ ếch đẻ hoang,” ngài thầm thì một cách phẫn uất. Đoạn ngài nhắm mắt lại thư giãn và ngài gặp mình trong bóng tối. “Hãy nhớ,” ngài nhớ, “rằng cho dù ông hay bất cứ người nào khác, nó sẽ không kéo dài trước khi ông chết và thậm chí nó sẽ không kéo dài trước khi tên ông không được lưu lại.” Ngài đợi cho đến khi cơn thịnh nộ qua đi. “Nói cho tôi một điều,” sau đó ngài hỏi, “Cô đã nghe gì về tôi?” “Ngài có muốn thành thật trước chân lý của Chúa không?” “Thành thật trước chân lý của Chúa.” “Được,” Laura Farina mạo hiểm, “họ nói ngài còn tệ hơn những người còn lại vì ngài khác biệt hẳn.” Ngài nghị sĩ không nổi giận. Ngài giữ im lặng trong một lúc lâu với đôi mắt nhắm lại, và khi ngài mở chúng ra lần nữa, ngài có vẻ như quay lại với những bản năng được che giấu nhất của ngài. “Ồ, quỉ sứ,” ngài quyết định, “Hãy nói với đồ chó đẻ cha cô là tôi sẽ sắp xếp tình hình của ông ta.” “Nếu ngài muốn, đích thân tôi sẽ đi lấy chiếc chìa khóa,” Laura Farina nói. Ngài nghị sĩ giữ cô lại. “Quên chiếc chìa khóa đi,” ngài nói, “và ngủ với tôi một lát. Thật tốt được ở với ai đó khi bạn chỉ có một mình.” Sau đó cô đặt đầu vào vai ngài với đôi mắt gắn chặt vào cây hoa hồng. Ngài nghị sĩ ôm cô quanh ngực, vùi mặt ngài vào nách con vật rừng, và chịu khuất phục trước con vật khủng khiếp. Sáu tháng và 11 ngày sau, ngài sẽ chết ở cùng tư thế này, mất phẩm chất và không được công nhận bởi xìcăngđan công khai với Laura Farina và khóc trong giận dữ lúc hấp hối mà không có cô. VĨNH HIỀN dịch (254/04-10)
|
ALBERT LAMORISSE (Pháp)
Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.
HISHAM BUSTANI
JOHN L’HEUREUX
HANS CHRISTIAN ANDERSON
Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.
George Saunders - Franz Kafka
Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
Dương Đức dịch và giới thiệu
Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.
AMOS OZ
Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.
ALBERTO MORAVIA
KATHERINE MANSFIELD (Anh)
Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.
Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).
Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.
MARK TWAIN
M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.
L. TOLSTOY
Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).
VẠN CHI (Trung Quốc)
Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.
Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.
Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.
SAKI
1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.
Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.
Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.
NAGUIB MAHFOUZ
Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.