KIMO
Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.
Cà phê Gác Trịnh. Photo Tuấn Med
Huế bây giờ đã thay đổi nhiều, nhiều ngoài sự tưởng tượng của tôi sau bao nhiêu năm không trở về, hay nói đúng hơn là sau bao nhiêu năm tôi không còn biết gì về Huế. Huế ngày xưa áo trắng ngập đường, Huế của một thời áo tím trong mơ, áo trắng nên thơ ngập lối về với chiếc nón bài thơ che nửa mái tóc buông lơi, làm cho bao nhiêu thơ văn đã ví “mái tóc của người con gái Huế đẹp như dòng sông Hương”. Dòng sông Hương đã đánh dấu trong lịch sử không hùng hồn như những con sông lớn trên quê hương Việt Nam mà Sông Hương là biểu tượng của “cô gái Huế,” vì dòng sông nằm trải dài giữa thành phố, ai ai cũng có thể nhìn và ngắm từ sáng sớm mờ sương cho đến đêm khuya hiu quạnh. Huế của thơ, Huế của mộng, và Huế đa tình như tà áo dài người con gái. Huế bây giờ đắm chìm bởi hương vị ngọt đắng café để người con gái Huế xưa trở về với chuyện tình liêu trai bên ly café của những buổi sáng tinh mơ. Ly café sữa nóng bắt đầu vào một buổi sáng sớm mùa hè năm đó, “Café của Huế”, đánh dấu một mối tình liêu trai sinh sôi nẩy nở trong Mộng và Thực.
Tiếng ve sầu vào hè réo vang, tưởng chừng như đó bài hòa tấu thiên nhiên từ hàng ngàn con ve đang giấu mình trong tàng lá xanh với những trái vải đỏ hồng đong đưa. Cũng không biết là đã từ bao lâu của thời gian, có lẽ là lâu lắm bây giờ tôi mới nghe được tiếng ve của một thời thơ ấu, viết đến đây tôi lại nhớ mùa hè năm xưa với tiếng hát ngây thơ ngày nào Nỗi buồn hoa phượng của Thanh Sơn: “Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn/ Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương…/ Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng/ Biết ai còn nhớ đến ân tình không…”. Tiếng ve sầu như khúc nhạc hòa tấu vui và buồn tùy vào thời gian nhưng tiếng ve bây giờ đánh thức tôi dậy khi trời tờ mờ sáng để tôi được nghe tiếng chuông Bát Nhã vang vọng từ đầu chánh điện. Chuông Bát Nhã là tiếng chuông khởi đầu của một ngày trong chốn thiền môn, tiếng chuông như là một chiếc đồng hồ đánh thức Ni chúng trong chùa dậy Cung Phu Khuya. Tiếng chuông chùa lấn át tiếng ve sầu cho đến lúc tiếng rung của chuông vừa ngưng, thì tiếng ve sầu cũng bắt đầu ngân lại, tôi có cảm giác như những con ve cũng biết tĩnh lặng để thưởng thức tiếng chuông Bát Nhã.
Khi nói đến tiếng chuông Bát Nhã thì phải nói đến người thỉnh chuông. Người ấy phải trải qua một thời gian học tập dộng chuông, tiếng chuông đi theo nhịp điệu của bài kệ để tiếng chuông đúng nhịp như những tay trống điêu luyện đánh theo dòng nhạc:
“Ba nghiệp lắng thanh tịnh
Gửi lòng theo tiếng chuông
Nguyện người nghe tỉnh thức
Vượt thoát nẻo đau buồn…”.
Trong chốn thiền môn, nghe tiếng chuông người ta có thể nhận định được trình độ tu chứng của người thỉnh chuông, tiếng chuông cũng biểu lộ ra được tâm an lành, vững chải theo tiếng chuông rung. Muốn được nghe chuông Bát Nhã cần phải để tâm thức lắng sâu, mới nghe được âm thanh tuyệt diệu trong độ rung ngân kéo dài cho đến lúc tiếng chuông hoàn toàn dừng lại.
Tôi với tâm tư tĩnh lặng trên chiếc gường gỗ được gọi là “sập rương” theo tiếng Huế, tiếng chuông Bát Nhã cùng tiếng ve sầu cho tôi cảm giác thú vị lâng lâng, mơ hồ như nửa tỉnh nửa mê, cho đến lúc ngoài sân chùa vang vọng tiếng chổi rành xào xạc quét lá. Tiếng cười tiếng nói trong trẻo hiền hòa dễ thương của ni điệu bé bé đã cắt ngang dòng tư tưởng của mùa hè phượng đỏ ngày xưa, ý nghĩ mông lung của buổi hẹn hò sau bao năm không gặp, hay nói đúng hơn là hoàn toàn không biết gì về ông thầy ngày đó. Tiếng nói tiếng cười tiếng khua động ngoài sân làm cho tôi ngồi dậy nhìn ra vườn để tìm kiếm những con ve sầu ẩn nấp trong tàng lá. Tiếng sư cô trẻ lôi tôi ra khỏi tư tưởng tìm kiếm ve sầu: “Chị ra ngồi nói chuyện với sư cố cho vui”! Tôi vào phòng đánh răng rửa mặt thật nhanh không cần trang điểm. Buổi sáng ở đây trời mát trong lành, những chậu hoa và cây kiểng được quý sư cô cắt tỉa rất khéo làm cho sân chùa thêm an lạc trong màu xanh tươi của hoa lá. Nhìn ra ngoài sân đã nghe tiếng nói tiếng cười của ni điệu, họ dậy sớm lắm, chia ra từng nhóm, làm từng phần hành khác nhau như quét sân, lau sàn chùa, và nấu thức ăn sáng. Ni điệu nhỏ nhoi bé bỏng trong bộ áo quần vạt hò màu lam, quần được túm lại ống cao ống thấp bằng những cọng dây thun lớn, họ cười cười nói nói ngây ngô dễ thương như những đóa hoa vừa mới hé. Tôi ngồi cạnh sư cố cùng nhìn ra ngoài sân với những dòng tư tưởng về tôn giáo, nhìn cuộc sống tu hành bên ngoài thật êm đềm, xem vật chất nhẹ tựa “mây hồng” và hạnh phúc lắm vì chẳng có gì để mà cạnh tranh.
Nói đến chùa thì không biết bao nhiêu chuyện, từ kinh kệ đến thiết lý Phật học cao siêu, hơn 2500 năm nay vẫn không có sách vở nào diễn đạt hết ý nghĩa thâm sâu. Tôi là một cư sĩ, đến thăm viếng chùa nhưng lại được xem như là một khách quý vì giữa sư cố và tôi có mối liên hệ khá đặc biệt với nhau như tình thâm. Buổi sáng tôi cũng thức dậy sớm, cũng quét sân chùa cùng với Điệu sau một vài ba phút hầu chuyện cùng sư cố. Tôi làm việc trong thích thú với trăm ngàn ý tưởng như đang đua nhau trong tâm trí mà con mắt cứ nhìn xem con số giờ trên mặt kính điện thoại di động trong túi áo bà ba màu lam. Ở đây ai cũng ngủ sớm để thức dậy sớm nhưng thời gian không bó buộc con người như bên kia bờ đại dương.
Tiếng của hai Sư cô trẻ nói:
- Cố xem ai là điệu mới vào chùa?
Sư cố cười thành tiếng: - Hắn chứ ai!
Tiếng chuông điện thoại di động reo trong túi áo bà ba màu khói lam như tôi đang chờ đợi! Tôi “Hello” trong giọng Bắc ấm áp, giọng nói ngọt ngào như nụ cười trong sáng sớm, và giọng nói của tôi bây giờ chứ không còn tiếng Huế ngày xưa. Tôi trả lại cái chổi rành đã mòn cho điệu nhỏ, vội vàng vào phòng tắm nhanh trong cái mát lạnh của nước buổi sáng. Tóc tôi dài xõa xuống vòng lưng mong manh, tôi quên mất ở chùa làm sao có lược cho tôi chải tóc, làm sao có “gương” cho tôi trang điểm nhưng tất cả những thứ đó không còn cần thiết. Năm ngón tay gầy làm lược, màng hình điện thoại làm gương, tóc búi tó lên cao không ngay hàng thẳng lối, chỉ cần một tí môi son cũng đã duyên dáng. Tôi nghĩ đến ông thầy rồi lại cười một mình, thời gian hẹn chỉ trong 15 phút.
Tôi đơn giản trong chiếc quần jeans và áo thun thụng trắng, màu trắng giúp tôi xóa đi những điểm khiếm khuyết, cặp kính mát màu đen che hết nửa khuôn mặt, một vài cọng tóc xõa lững lờ trước trán làm cho khuôn mặt của tôi lãng mạn hơn. Tôi chấp tay cúi đầu chào sư cố, chào hai ni trẻ và mấy điệu bé bé bằng nụ cười tươi. Tiếng sư cô nói vọng từ phòng: “Chị nhớ trưa về ăn cơm với sư cố nghe!” Tôi “dạ” lớn đủ cho mọi người nghe rồi vội vã leo lên taxi để đi đến điểm hẹn. Tôi nôn nóng muốn gặp lại người quen vì đến Huế hơn ba hôm rồi và tôi đã làm hết bổn phận làm con làm cháu với ông bà cha mẹ trong mấy ngày qua. Hơn một năm trời nói chuyện qua phương tiện điện thoại tôi thắc mắc muốn biết về quán café, muốn nếm thử mùi vị café như thế nào?, muốn tìm hiểu trong thế giới riêng tư của café có gì?, mà sao lại thu hút đám đàn ông cũng như giới phụ nữ ngày nay; hay là tôi muốn gặp ông Thầy ngày đó? Taxi đến trễ 5 phút vì con đường một chiều phải chạy vòng quanh. Khuôn mặt như đã quen thuộc từ lâu, một khuôn mặt mà tôi đã thấy, khuôn mặt đã ngủ yên trong tiềm thức hơn mấy mươi năm, bây giờ được đánh thức dậy sáng hôm nay như chuyện huyền thoại của “người trong tranh” trở thành chuyện tình liêu trai chí dị. Một cảm xúc kín đáo vây quanh, ông thầy không dám nhìn tôi trong giây phút đầu gặp gỡ, và tôi cũng được giới thiệu với vài người bạn của thầy. Tôi cũng xin ly café sữa nóng như mọi người, tự nhiên như sành điệu lắm nhưng thật sự đây là lần đầu tiên trong đời vào quán café, và cũng lần đầu uống café. Tôi nghĩ thầm café chẳng có gì ngon nhưng thiên hạ ào ào uống café quán cốc như một phong trào, có lẽ phong trào của xã hội mới ngày nay, uống cho quên đi những năm tháng nhọc nhằn. Mới nghe qua cũng thấy lạ khi tôi đã từng uống những ly rượu mạnh không thua gì đàn ông của những ngày lang thang của mơ với ước, hay trong những buổi tiệc lớn nơi tôi đang sinh sống, thế mà café thì chưa một lần nếm qua, cuộc đời là vậy đó, có khi đảo ngược không ngờ nhưng tôi không đánh mất Huế. Tiềm ẩn của Huế, của dòng sông Hương ăn sâu trong tận cùng xương tủy như tôi vẫn nói đùa với bạn bè: “Bà mụ đã thẩy tôi xuống sông Hương” khi vừa mới cắt nhau cột rốn nên tôi là của Huế thơ, Huế mộng, Huế đa tình và tất cả những gì của Huế đều có hết trong từng mạch máu đang luân chuyển trong cơ thể. Ly café ở Nam Giao Hoài Cổ là của ngày đầu gặp gỡ, là của cảm giác như đã quen từ muôn kiếp trước, là rung động của nhịp tim đánh thùm thụp bởi giọt café.
Café Huế của con số mười sáu, ly cafe phân vân, tại sao người đàn ông kia nói hai chữ “mộng và thực?” rồi họ cười bí ẩn như cái tên “Thiên Đường” nằm trên vỉa hè dòng sông Hương. Họ cười với nhau ấp ấp mở mở để tôi ngơ ngác, rồi từng ly café nối tiếp như đã thấm dần men tình làm cho tôi hát bài “Phút cuối” của Lam Phương như một lời tạm biệt mà chỉ có riêng tôi hiểu. Chuyện “mối tình đầu của tôi với chàng sinh viên y khoa” ngày đó chỉ là cái cớ cho tôi mượn lời “Phút cuối” để hát cho cảm giác của mộng và thực, mà chỉ có ai đó và tôi mới nhận được cảm giác trong nhau. Căn phòng nhà hàng im lặng, bao nhiêu cặp mắt nhìn tôi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi tôi cất tiếng hát như một ca sĩ không chuyên nghiệp lắm nhưng giọng hát cũng lắm trữ tình như lòng tôi muốn nói. “Chỉ còn gần em một giây nữa thôi/ Một giây nữa thôi là xa nhau rồi/ Người mang cánh chim về vui với…”. Tôi hát trong dáng dấp chiếc áo dài tím “tím Huế, tím thơ, tím mộng hay tím đợi chờ”. Phải chăng tôi trở về mang lại Huế ngày xưa của thơ đến với thầy cô bạn hữu làm cho đêm mười bảy nhớ mãi không quên.
Buổi sáng mười tám bên quán cốc Thiên Đàng đến nhanh trong vội vã, buổi chia tay nào cũng bùi ngùi dao động buồn tênh, bạn bè cũng giã từ ra về để lại tôi giây phút yên tĩnh, giây phút cuối trong trống vắng. Anh đã viết cho tôi với lời nhắn nhủ: “Buồn buồn và nhớ ai đó không rõ lắm” với bài hát “Chiều tà” tiếng anh, tôi nghe đi nghe lại rồi mỉm cười một mình như đã hiểu. Chiều hôm đó tôi lang thang trên phố Huế, đi qua hết những con đường của tuổi 15, 16, cái tuổi đầy mơ với mộng. Cầu Trường Tiền gió lộng chiều hè với màn đêm buông xuống, mặt nước sông Hương êm đềm gợn sóng li ti, mặt sông lấp lánh như một tấm gương khổng lồ cho những tầng lầu cao ốc soi bóng mình lặng sâu dưới ánh đèn lấp loáng, chiếc xích lô đạp qua cầu làm tôi nhớ ngày nào áo trắng tôi cũng đã một lần tung bay trong gió lộng chiều nay.
Một thoáng nhớ, một thoáng buồn nuối tiếc trong tiếng thở dài sâu thẳm của đêm mười tám, tôi thẫn thờ nhìn góc phố chìm dần vào đêm, tiếng kèn xe thưa thớt để Huế của tôi cũng im lìm. Tôi nghĩ, không biết có ai đã nhìn Huế đắm chìm trong đêm như tôi đang nhìn đêm nay, mười ngón tay gầy nhanh nhẩu lướt nhẹ trên từng chữ cái, nhảy thật nhanh thành từng dòng tâm sự. Đêm im vắng quá để những ngón tay di động trên bàn phím cũng rõ mồn một trong màng sương buông xuống rồi lịm dần vào đêm.
Tiếng rung nhẹ của máy điện thoại di động báo có tin nhắn “có thể uống ly café cuối cùng được không?” đánh thức tôi sau một đêm dài thao thức nhìn Huế đắm chìm vào đêm. Lời nhắn mà tôi đã chờ đợi từng giây từng phút từ chiều qua, giây phút cuối trong tiếc nuối muộn màng... Tôi tươi mát trong chiếc áo sơ mi hồng bỏ vào thùng với quần jeans trắng, màu hồng đào che giấu nét mỏi mệt của đêm dài. Câu ca dao ngày nào của những người mới yêu nhau với giận hờn “…Lan Huệ sầu ai Lan Huệ héo, Lan Huệ sầu đời trong héo ngoài tươi”. Câu ca dao đó như đã nói lên bản tính của tôi, miệng luôn cười toe toét mà lòng thì buồn tênh, trở lại Thiên Đường của ly café cuối cùng nhằm vào con số mười chín, con số chia tay của phút cuối lại trở thành một chuyện tình liêu trai “Mộng và Thực” trên xứ Huế.
K.M
(SDB17/06-15)
TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...