ĐHNV lần 4 qua đã mấy chục năm mà bây giờ vẫn râm ran bài “vè” của Nguyễn Duy…; ĐHNV lần 7 thì bầu Ban chấp hành mấy lần, hơn 6, 7 trăm nhà văn mà chỉ bầu được 6 người quá bán; suốt cả miền Trung dằng đặc, cả Tây Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng Nam Bộ không có một đại diện nào! Vậy nên, ĐHNV lần 8 chưa họp mà trên “mạng” đã xôn xao ý kiến này nọ, cần phải cải cách đủ thứ quy chế và tổ chức, rồi tính ai sẽ “ngồi” vào ghế nào…
Phần mộ của nhà văn - liệt sĩ Nam Cao và nhà thơ Nguyễn Bính đều có bàn thờ và nhà lưu niệm kề bên, nằm trong khu vườn riêng yên tĩnh mà cũng có phần cô quạnh. Ông già trông coi nhà lưu niệm Nguyễn Bính có phần ngạc nhiên và e dè trước đoàn khách đến từ xứ Huế xa xôi. Nhà lưu niệm Nam Cao khang trang hơn, nhưng cửa đóng then cài, Đoàn thắp hương viếng mộ, dạo quanh tìm hình bóng vườn chuối và cái lò gạch mà nhà văn đã miêu tả, đi ra căn nhà nhỏ vẳng ra tiếng lách cách thoi dệt phía sau mới hỏi ra người giữ chìa khoá nhà lưu niệm… Hình như Hội Nhà văn cùng địa phương phải cố gắng nhiều lắm mới có nhà lưu niệm này và không ít địa phương đang mong ước có được nhà lưu niệm các nhà văn tên tuổi. Liệu có “kiểu mẫu” nhà lưu niệm nào khác sống động hơn không?... Cũng như cụ Tú, cả Nam Cao (1915-1951) và Nguyễn Bính (1919-1966) đều không thọ, nhưng tác phẩm thì lại sống mãi với thời gian. Cả ba đều trải những tháng ngày khốn khó. Như vậy hoá ra… Một ý nghĩ có phần “vô lối” bất chợt đến: Vì sao nhà văn hôm nay sướng hơn trước nhiều, sống thọ hơn trước nhiều, được chăm bẵm kỹ càng, nào học chính trị dài và ngắn, rồi lý luận và nghiệp vụ, nào trại viết, nào “đầu tư” sâu và cạn… nhưng lại ít có tác phẩm để đời? Đó là đôi điều ngẫm nghĩ về sau, còn trước phần mộ và bàn thờ các Cụ, chúng tôi ai cũng thành kính dâng hương và cầu nguyện. Thật khó biết các bạn cầu khấn những gì… Mà trong chuyện văn chương, dễ gì cầu khấn mà thành… Hoá ra trong đời, có khi “quay lui” lại hay! Chia tay với bạn bè Thành Nam, khi biết chúng tôi quay lui về Ninh Bình, có bạn ngạc nhiên hỏi: “Chỉ 1-2 giờ xe chạy, sao không ra Hà Nội “chơi” luôn thể?” Bạn ngạc nhiên cũng có lý vì khắp nơi đang “mùa”… Đại hội, người muốn có “ghế” ở Trung ương phải “chạy” ra Hà Nội đã đành, mà nghe nói nhiều cấp ở Tỉnh, huyện, muốn nắm chắc “ghế” ngon lành (được quyền ký các “dự án” chẳng hạn!) cũng phải “chạy” ra Hà Nội! Đúng là tôi “nghe nói” thế từ một người làm nghề… phô-tô! Tai mắt dân chúng là ghê gớm lắm. Mà chuyện “chạy chức” cũng đã được cảnh báo công khai giữa Quốc hội đó thôi! Còn chúng tôi, xem ra không ai ham hố gì chức vị ngoài Hà Nội cả, “chạy” ra làm chi! Gọi là đi chơi, nên xin “lạc đề” một chút. Chúng tôi quay lui cũng vì các bạn ở Hội Văn nghệ Ninh Bình, dù chưa gặp mặt bao giờ, nhưng đã sốt sắng giúp đặt phòng trọ, cử người hướng dẫn đi thăm Bái Đính và Tam Cốc, Hoa Lư; rồi nhà văn Kiều Vượng ở Thanh Hoá cũng đã “lên lịch” hẹn hò. Chuyến đi có tính hành hương về nguồn cội, lại là người cầm bút ở Cố đô Huế, thì “quay lui” để được đặt chân đến Cố đô Hoa Lư, Thành Nhà Hồ và “Gia Miêu ngoại trang” - quý hương của Nhà Nguyễn - là việc rất phải đạo. “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, trên đường vào Tam Cốc bằng chiếc du thuyền xinh xẻo vừa đủ 4 chỗ ngồi, di chuyển nhờ đôi chân của người chủ thuyền, đang ngẩn ngơ trước cảnh sơn thủy hữu tình kỳ thú đến vua nhà Trần đã ghé lại đề thơ, bỗng nghe cô hướng dẫn viên ca ngợi Huế trước khi nói đến vẻ đẹp của Tam Cốc, lại nhớ câu hát quen thuộc “vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được” do 3 diễn viên chèo có hạng của Nam Định mà Giám đốc Sở Văn hoá Thành Nam dẫn tới trình diễn chào đón các nhà văn từ miền núi Ngự sông Hương đêm trước, chợt “ngộ” ra một điều: Vùng đất nào cũng tìm thấy “vẻ đẹp chẳng nơi nào có được”, Huế mà cứ tự ru bằng câu hát xưng tụng đó thì chưa biết chừng… Như Ninh Bình đây, hồi còn thuộc tỉnh Hà Nam Ninh, gần như là một vùng đất bị bỏ quên; vậy mà nay thành một điểm đến hấp dẫn du khách không chỉ bằng những phong cảnh đẹp được tạo hoá ban tặng và dấu tích lịch sử ngàn xưa mà còn vô số những công trình mới, trong đó, chùa Bái Đính sắp được hoàn tất, nơi hội tụ đến mấy kỷ lục quốc gia về kiến trúc và điêu khắc, (dù không phải ai cũng bái phục và không ít người còn “thắc mắc” không biết “người ta” lấy tiền đâu ra mà xây dựng một công trình vĩ đại như thế!...) Ngẫm ra, trên đời này cái chi vĩ đại, khác người cũng bị xăm xoi, cũng có “tiếng ra tiếng vào”. Ngày xưa ở Huế thì như Lăng Tự Đức đó, dân chúng “thắc mắc” đến mức thành loạn “giặc chày vôi”, nhưng nay đã trở nên một phần của “di sản văn hoá” được thế giới công nhận! Có điều, nhìn cả vùng đất mênh mông nối liền Thành phố Ninh Bình với khu thắng cảnh di tích cổ xưa ẩn mình trong dãy núi đá vôi thâm nghiêm và yên tĩnh bao đời vừa được san ủi, đường mới khai thông tung bụi mù mịt mỗi khi có xe qua lòng cứ thắc thỏm một nỗi lo: với tốc độ khai thác như thế này, mươi lăm năm nữa, liệu con cháu còn chi để “làm ăn”? Và thiên nhiên, sinh thái vốn đã cân bằng, liệu có “nổi loạn” trước sự can thiệp thô bạo của con người? Những câu hỏi nhức nhối này gần như đã cuộn lên thành “bão” khi ngang qua khu công nghiệp Nghi Sơn (Thanh Hoá) và Quỳnh Lưu (Bắc Nghệ An), cả một vùng đất rộng mênh mông với tất cả nhà cửa, vườn tược và hàng vạn con người hầu như suốt tháng, suốt năm chìm ngập trong cơn “bão” bụi trắng nhờ nhờ, hẳn là rất độc hại cho sức khoẻ con người. Và kìa, trên đỉnh một dãy núi đá vôi cao sừng sững vừa bị san phẳng, tựa như bị quỷ thần hay người khổng lồ ngoài hành tinh tung phép lạ chặt ngang thân, một chiếc máy xúc ngạo nghễ vươn cần trông thật oai phong mà cũng thật… ghê sợ. Phải! Con người hôm nay, với phương tiện máy móc hiện đại, “dời núi và lấp biển” xem ra chẳng còn mấy khó khăn. Nhưng trớ trêu thay là mặt nước biển đang dần dâng cao, đe doạ nhấn chìm những vùng đất mầu mỡ rộng lớn nuôi sống hàng triệu người. Mà con người đã bị “tấn công”, đã phải đổ máu ngay từ hôm nay. Vùng đất này đã chứng kiến nhiều vụ đá sập đè chết người tang thương; và khi tôi viết những dòng này, máu đã đổ khi giải toả mặt bằng trên khu đất sẽ xây dựng nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn! Đã đành, trên đời này, việc gì cũng có hai mặt. Để công nghiệp hóa, tăng GDP, phải trả giá, ít nhiều phải chịu hy sinh. Nhưng không biết các nhà làm “dự án” đã bao giờ tính máu xương đổ ra trong quá trình xây dựng và hàng trăm ngàn tấn bụi bặm độc hại gây tai hoạ cho dân chúng vào “giá thành” công trình chưa? Hay như ở “đâu đó”, chỉ nhớ tính tiền phần trăm “lại quả”, rồi “hạ cánh” sống cuộc đời vương giả, mọi sự lời lỗ thua thiệt “bàn giao” cho con cháu đời sau?... Không phải bỗng dưng tôi nghĩ tới sự “nổi loạn” của thiên nhiên. Ngay trước cửa thành nhà Hồ, vào đúng lúc chiếc xe như bị… ma quỷ ám hại không sao nổ máy được thì một “cơn bão” nổi lên dữ dội, gió lốc xoáy tung bụi đất tối tăm mặt mày. Chẳng thể biết cơn lốc nổi lên vì sao, nhưng bụi bặm mù trời thì rõ ràng là do chiếc máy ủi vừa san bằng một đoạn bên chân thành nhà Hồ. Mấy người thợ đang xây dựng lại đình làng cửa Đông gần đó, bảo: “Trước đây đã có xe chết máy bất ngờ như thế. Chắc là vì các bác không thắp hương cầu khấn… Bên cửa thành có đền thờ nàng Bình Phương rất thiêng. Tương truyền rằng khi xây thành, nàng đến thăm chồng, nhưng chồng đã bị chôn sống; nàng liền đập đầu tự vẫn; tảng đá in dấu chỗ nàng đập đầu và cả hai bàn tay nữa hiện đang thờ nơi hậu cung…” Trong gió và mưa, bất kể già cả hay “liễu yếu đào tơ”, chúng tôi xúm vào đẩy xe mấy lượt vẫn không nổ, đành phải nghe lời khuyên đi mua hương vào đền cầu cúng. Rồi lại xúm vào đẩy xe. Chiếc xe vẫn đứng ì ra. Trời đã tối mịt. Nhà văn Kiều Vượng thì đã đặt cơm tại Thành phố Thanh Hóa, dăm phút lại gọi điện hỏi thăm tình hình. Lại là “một ngày đàng học một sàng khôn”, thì ra tình đồng đội, đồng nghiệp có khi mạnh hơn cả thần linh, gặp lúc gian nan mới biết mặt anh tài. Giữa dông bão, đêm tối, lại là ngày chủ nhật, không một chủ xe nào chịu cho xe lên Thành nhà Hồ “cứu nguy” cho các nhà văn xứ Huế. Nhưng rồi điện thoại đi động rung lên, giọng nhà văn Kiều Vượng mừng như bắt được vàng: “Các bạn chịu khó chờ một lúc. Tìm được xe rồi!” Người lái xe băng mưa gió lên “giải cứu” cho đoàn Huế đeo kính trắng, thân hình gầy mảnh. Mãi đến lúc vào “tiệc” mới biết anh là tổng giám đốc một doanh nghiệp, cũng là một cựu chiến binh! Chỉ có Kiều Vượng mới có thể “điều động” được xe kiểu đó!... Chợt nghĩ: Nếu như không “quay lui” thì làm chi có dịp để suy ngẫm về lẽ “được-mất” ở đời và được “sống” trong một hoàn cảnh mà “cây truyện ngắn” Trần Thuỳ Mai rất có thể sẽ “mượn” đưa vào sáng tác mới nay mai… “Tiến tới” ĐHNV bằng những tác phẩm mới Vì “sự cố” hỏng xe, chúng tôi đành lỡ hẹn với nhà văn Đức Ban, tạm gác kế hoạch viếng mộ cụ Nguyễn Du. Mỗi người trong Đoàn, ít nhiều cũng đã đến đây một đôi lần, nhưng địa chỉ văn hoá bên sông Lam này, sau mấy đợt trùng tu tôn tạo, chắc đã khác xưa. Vả chăng, mỗi lần đứng trước một tài năng lớn, một nhân cách lớn, người cầm bút có thể “ngộ” ra những giá trị mới. Nhưng thôi, đợi đến lúc ra Hà Nội dự ĐHNV sẽ đến xin Cụ Tiên Điền chỉ giáo. Về tới Huế được mấy hôm, Chi hội nhà văn tổ chức Đại hội, để “tiến tới” ĐHNV. Trong khi nhiều nơi thi nhau “chạy chức” thì tổ chức Chi hội nhà văn - ít ra là ở Huế - ai cũng sợ bị bầu vào Ban chấp hành. Từ Tô Nhuận Vĩ, Hà Khánh Linh, Trần Thuỳ Mai, Nguyễn Khắc Phê… đều xin rút lui khi được đề cử. Không chỉ vì Chi hội là một tổ chức “bốn không” (không tiền, không quyền, không trụ sở, không biên chế) mà điều chính yếu vì nhà văn không ai muốn bị ràng buộc, thích được tự do hoàn toàn để sáng tác. Vậy nên Đại hội Chi hội vừa kết thúc “thành công” (cho dù nhà văn bất đắc dĩ phải “gánh” chức Chi hội trưởng mặt nhăn nhó đến khốn khổ!) thì Tô Nhuận Vĩ tuyên bố “đóng cửa” để ngồi viết cho xong tiểu thuyết “Vùng sâu”; Nguyễn Quang Hà, Mai Văn Hoan, Ngô Minh đều lo tìm nguồn “đầu tư” và nơi in các bản thảo vừa hoàn thành (Nguyễn Quang Hà có tiểu thuyết “Con nợ”, Mai Văn Hoan - tập nghiên cứu phê bình “Đọc và suy ngẫm”, Ngô Minh - “Ký ức Trường Sơn”); Lâm Thị Mỹ Dạ thì sắp in “Tuyển tập” (thơ và truyện thiếu nhi) và tập sách mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nguyễn Khoa Điềm vừa từ TP. Hồ Chí Minh về, trong ý kiến phát biểu tại Đại hội Chi hội, nhà thơ tỏ ra ưu tư về việc Huế chưa khai thác và phát huy hết những giá trị văn hoá truyền thống mà ông cha để lại như Tuồng Huế, thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm…; ông không nhắc tên, nhưng tôi biết ông vừa mang về nhiều tư liệu quý về người phụ nữ tài danh xứ Huế là Đạm Phương Nữ sử (1881-1947), hẳn là để chuẩn bị cho một công trình nghiên cứu xuất bản trong dịp kỷ niệm 130 năm sinh của bà vào năm 2011 sắp đến. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vừa công bố tập biên khảo về một nhân vật nổi tiếng ở Huế (Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành), lại đã “nói nhỏ” với tôi: “Mình xong tập hồi ký rồi, dày cộp…” Trần Thuỳ Mai thì lại “Nam tiến”, nghe nói để bàn chuyện làm bộ phim lịch sử rất nhiều tập… Chà, dài dòng rồi mà kể vẫn chưa đủ. Còn Hà Khánh Linh, Trần Huyền Sâm… cũng đang cặm cụi bên những bản thảo mới… Khi tôi viết những dòng này, thì Nguyễn Quang Hà, dù cánh tay bị thương còn thâm tím, đã ra Bắc Giang tìm gặp lại đồng đội may mắn còn sống sót để hoàn thành tập sách về Đại đội Ngô Gia Tự - gồm toàn những thầy giáo phải rời bục giảng ra mặt trận thời chống Mỹ. Thiết nghĩ, đã là nhà văn, cách “tiến tới” ĐHNV đẹp nhất là dồn sức để có thêm nhiều tác phẩm mới ra đời… Trường An- Huế 5- 6/2010 N.K.P (258/8-10) |
Bút ký
Bút ký
Đi dọc những triền đê mùa xuân thấy ngọt ngào hương cỏ mật. Chợt gặp chiều phiêu linh trên dòng sông Sò. Con sông vươn tay một cái là chạm ngay vào biển. Khói ráng lênh đênh đuổi nhau trên cửa Hà Lạn.
Buổi sáng sớm cuối năm, tôi chạy xe qua đường Chi Lăng - phố cổ Gia Hội và bất chợt gặp đôi triêng gióng của một mệ già đang đi ngược đường. Tôi định dừng lại bấm một chiếc ảnh, nhưng đường đang đông người nên thôi.
Nhiều người đi xa lâu ngày khi nhớ về thành phố thường thắc tha thắc thỏm, phố bây chừ còn những lối xưa, người bây chừ còn giữ những nếp xưa, có còn những nét mềm mại hiền ngoan đã từng níu biết bao ánh nhìn mỗi khi có một ai phải dứt áo xa quê.
Sông Hương chảy xuyên suốt vào lòng đô thị Huế. Những phù sa, trầm trích sông để lại, tạo nên một Cố đô đầy kiêu sa, hiền từ, thư thả giữa trời mây.
VĨNH QUYỀN
Bút ký
LỮ MAI
Bút ký
Như lời hẹn hò từ trước với bà con - “Nhớ lên bản mùa táo mèo nở rộ” - chúng tôi rủ nhau đi về hướng núi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Tùy bút
Cái không khí Tết đến, xuân về đã kề cận thật rồi, chợt nghe ai đó đọc câu thơ cũ: “Một chén xuân đưa vạn dặm tình/ Cỏ thơm đứt ruột nát lòng oanh.
NGUYỄN HỮU TẤN
Bút ký
Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
(Hò giã gạo Huế)
HOÀNG ĐĂNG KHOA
Tùy bút
HƯƠNG GIANG
Ghi chép
TRẦN BẠCH DIỆP
Ghi chép
LÊ HIẾU ÁNH
Ký
VÕ MẠNH LẬP
Ghi chép
Sau trận Ca-mác, đồn Lai Hà được dựng lên. Làng mạc san sát bây giờ dân bị gom lại, nhà cửa, bờ tre, cây cối bị san bằng không còn một cành cây, ngọn cỏ.
NGUYỄN QUANG HÀ
Bút ký
Nói đến thú chơi hoa cảnh, người ta thường nhớ ngay tới những vườn đào Nhật Tân, những vườn lan Đà Lạt, chim cảnh trăm giống Sài Gòn, cá vàng ngũ sắc Hải Phòng. Ít ai nghĩ rằng Huế cũng là đất chơi hoa. Mặc dù cái tên Cố đô Huế đã rất quen, rất thân thuộc với mỗi người.
NGUYỄN HỮU TẤN
Nước non còn đó muôn đời
Ai chia được nước, ai dời được non
("Lý tình tang" Huế)
NGUYỄN KINH BẮC
"...Mình biết, mỗi người đều có một Huế riêng cho mình. Riêng với mình, Huế bắt đầu là ở câu thơ này:
"Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng
Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai".
NGUYỄN NGỌC LỢI
Cả tuần nay mới thực sự đông. Tinh mơ tốc chăn, mở cổng ra đường, cái rét buôn buốt phả vào nhưng nhức tê tê nơi da mặt.
TRƯƠNG BÁ CHU UYÊN
Tùy bút
Mai vàng có ở nhiều nơi, nhất là từ Huế trở vào miền Nam, cứ đến mùa xuân hoa mai nở rộ, khoe sắc. Hoa mai tượng trưng cho người quân tử, mang cốt cách thanh cao, khoáng đạt.