Các nhà soạn nhạc Ý thời kỳ Baroque

09:28 14/07/2016

Trong thời kỳ Baroque, nước Ý đóng vai trò trung tâm với những phát kiến mới về cả nội dung lẫn hình thức thể hiện của âm nhạc.

Vở opera La favola d’Orfeo của Monteverdi công diễn tại nhà hát Teatro dell’Opera di Roma.

Với sự đóng góp lớn lao của mình, các nhà soạn nhạc Ý không chỉ đem lại những thay đổi về quan điểm âm nhạc với những nhà soạn nhạc cùng thời mà vươn xa hơn, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những nhà soạn nhạc thời kỳ sau.

Claudio Monteverdi (1567-1643)

Claudio Giovanni Antonio Monteverdi (1567-1643) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ viola, ca sĩ, nhạc trưởng Ý đã có vai trò quan trọng trong sự chuyển giao âm nhạc giữa thời kỳ Phục hưng và Baroque. Sinh ra khi thời kỳ Phục hưng đang phát triển, Monteverdi học nhạc với thầy Marc’Antonio Ingegneri. Năm 1590, ông nhận danh hiệu viện sĩ hàn lâm Santa Cecilia tại Roma, và từ đó, ông phục vụ quận công Mantua. Năm 1599, ông kết hôn với ca sĩ cung đình Claudia Cattaneo (mất tháng 8/1607). Họ có hai con trai và một con gái mất khi mới sinh.

Từ năm 1601 Monteverdi chỉ huy dàn nhạc nhà nguyện, phụ trách phần nhạc thính phòng tại nhà quận công Mantua. Năm 1607, Monteverdi viết vở opera La favola d’Orfeo đầu tiên. Đây là dấu ấn quan trọng trong lịch sử opera, vì nó là vở opera đầu tiên có nhạc đệm. Năm 1612, sau khi quận công mất, Monteverdi đến Venice, dẫn dắt dàn nhạc Nhà thờ lớn Saint Mark, một trong những cương vị danh giá nhất thời đó. Năm 1613, ông chuyển đến San Marco ở Venice làm nhạc trưởng. Năm 1632, ông trở thành linh mục. Monteverdi mất năm 1643 tại Venice.

Ở thời Phục hưng, trong âm nhạc, Monteverdi có vị trí sánh ngang với William Shakespeare trong văn học. Ông là nhà kinh điển đầu tiên của opera Ý, sáng tạo ra phần overture để mở màn cho vở diễn. Monteverdi để lại khoảng 20 tác phẩm âm nhạc sân khấu, trong đó có 8 opera La favola d’Orfeo (1607), Ulissey trở về quê hương (1640), Lễ tấn phong hoàng hậu Poppea (1642)… được xem là đỉnh cao bi kịch và lãng mạn; các ballet, hợp xướng, messa, motet, canzonette và khoảng 150 madrigal thế tục tình yêu và tôn giáo.

 

Arcangelo Corelli (1653-1713)

Arcangelo Corelli sinh ngày 17/2/1653 tại Fusignano, Ravenna và mất ngày 8/1/1713 tại Roma, ông là nghệ sĩ violin và nhà soạn nhạc Ý quan trọng hàng đầu thời kỳ Baroque. Tuy nhiên, nửa đầu cuộc đời Corelli ít được người ta biết đến. Sau này người ta chỉ biết rằng ông là đệ tử của một ca sĩ trong ca đoàn của Giáo hoàng Chapel ở Roma là M. Simonelli; học sinh của các nghệ sĩ vĩ cầm Benvenuti, Brunoli, và có khả năng còn là học sinh của Laurenti và Bassani. Từ năm 1681 đến khi qua đời, Corelli sống tại Rome với người bảo trợ là Đức Hồng y Ottoboni.

Các tác phẩm của Corelli từ lâu đã có một giá trị to lớn. Ông đã viết bản sonata cho violin (chơi trong nhà thờ tại thời điểm đó, và điều này giải thích tại sao Corelli gọi nó là “Sonate di chiesa” (sonata nhà thờ). Không chỉ có vậy, Corelli đóng góp quan trọng vào sự phát triển hình thức violin concerto với các concerti grossi.

Ảnh hưởng của Corelli lên phong cách sáng tác âm nhạc của những nhạc sỹ đương thời và nhạc sỹ các thế hệ tiếp theo rất lớn, như Tartini và Vivaldi ở Ý, Couperin và Leclair ở Pháp, Handel, Bach và Telemann ở Đức, Eccles ở Anh và Benda tại Séc… Bach đã nghiên cứu tác phẩm của Corelli và sáng tác bản Fugue cho organ, BWV 579 trên chủ đề bản Opus 3 của Corelli viết năm 1689. Concerti grossi Opus 6 của Handel là phỏng theo mô hình concerti grossi của Corelli. Các concerti grossi của Corelli luôn rất phổ biến trong văn hóa phương Tây.

Ngoài ra, Corelli còn là một nghệ sĩ biểu diễn với lối diễn đạt đầy tính trữ tình, nhiều cảm xúc và khả năng thu hút khán giả một cách lạ lùng.

 

Alessandro Scarlatti (1660-1725)

A. Scarlatti sinh ngày 2/5/1660 tại Sicily, Palermo, mất ngày 24/10/1725 tại Napoli. Với hơn 60 opera, ông được coi là người sáng lập trường phái opera Napoli.

Vở opera Gli Equivoci nell’amore của ông công diễn thành công tại Rome năm 1679 đã giúp ông nhận được sự bảo trợ của Nữ hoàng Thụy Điển, Christina, một trong những khán giả có mặt tại buổi diễn ở Rome. Tháng 2/1684, với sự giúp đỡ của em gái, ca sĩ opera, tình nhân của một nhà quý tộc có ảnh hưởng ở Napoli, ông trở thành Giám đốc âm nhạc của phó vương Napoli. Tại Napoli, ông sáng tác lượng lớn opera đáng chú ý bởi sự năng động và biểu cảm cùng các tác phẩm âm nhạc cho những dịp đặc biệt.

Năm 1702, A. Scarlatti rời Napoli. Ban đầu ông ở Florence, sống dưới sự bảo trợ của Cosimo III de ‘Medici. Ông đã viết nhiều opera cho nhà hát cung đình. Ông cũng đã viết một vở opera cho Đức Hồng y Ottoboni, làm giám đốc nghệ thuật cho ông ta và đóng vai trò tương tự cho ông ta tại nhà thờ Santa Maria Maggiore ở Rome năm 1703.

Tại Rome, ông đã sáng tác các vở opera xuất sắc nhất của mình (Telemaco, 1718; Marco Attilio Regolò, 1719; La Griselda, 1721) cũng như các tác phẩm tuyệt đẹp của âm nhạc nhà thờ, trong đó có một Thánh lễ cho dàn hợp xướng và dàn nhạc, dâng tặng Thánh Cecilia (Saint Cecilia) vào năm 1721. Tác phẩm chính cuối cùng của ông bị bỏ dở. Đó là một serenade cho đám cưới của Hoàng tử Stigliano năm 1723. Ngày nay, để tưởng nhớ ông, người ta đã đặt tên A. Scarlatti cho một miệng núi lửa trên sao Thủy.

 

Antonio Vivaldi (1678-1741)

Vivaldi sinh ngày 4/3/1678 tại Venice, mất ngày 28/7/1741 tại Vienna là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm điêu luyện, giảng viên âm nhạc đồng thời là một linh mục, được đánh giá là một trong những nhà soạn nhạc lớn nhất thời kỳ Baroque, có sức ảnh hưởng lan rộng khắp châu Âu.

Le quattro stagioni được sáng tác năm 1723 là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Là một phần của Il cimento dell’armonia e dell’inventione (Vấn đề giữa sự hài hòa và sáng tạo), nó tái hiện các trạng thái và khung cảnh của mỗi mùa trong năm. Tác phẩm này vẫn được các nhà phê bình âm nhạc nhắc đến như một ví dụ tiêu biểu về âm nhạc trước thế kỷ 19. Ngoài bộ concerto nổi tiếng này, Vivaldi còn viết hơn 500 concerto khác, trong số này có 230 bản concerto cho violin, các tác phẩm còn lại là cho bassoon, cello, oboe, flute, viola d’amore, recorder, lute, hoặc mandolin. Bên cạnh đó ông còn sáng tác 46 vở opera, nhiều tác phẩm âm nhạc nhà thờ, các sinfonia, khoảng 90 sonata và tác phẩm thính phòng. Nhiều tác phẩm của Vivaldi được viết cho hợp xướng nữ tại Ospedale della Pietà, một nhà tình thương nơi Vivaldi ở trong khoảng thời gian các năm 1703 - 1715 và 1723 - 1740 khi ông được thụ phong là linh mục Công giáo. Ông cũng có một số thành tựu khi dựng các vở opera lớn ở Venice, Mantua và Vienna.

Sau cuộc gặp Hoàng đế Charles VI, Vivaldi đến Vienna với hy vọng thăng tiến. Tuy nhiên, vị hoàng đế này mất sau khi Vivaldi đến Vienna một thời gian ngắn. Chưa đầy một năm sau, Vivaldi cũng mất trong cảnh bần cùng. Sau cái chết của Vivaldi, âm nhạc của ông đã đi vào quên lãng cho đến khi hồi sinh mạnh mẽ vào thế kỷ 20.

 

Domenico Scarlatti (1685-1757)

Giuseppe Domenico Scarlatti sinh ngày 26/10/1685 tại Napoli, mất ngày 23/7/1757 tại Madrid là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ đàn phím người Ý thời Baroque đã dành phần lớn cuộc đời ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Phong cách sáng tác của ông ảnh hưởng lớn đến âm nhạc thời kỳ cổ điển sau này.

D. Scarlatti trở thành nhà soạn nhạc và chơi organ cho phó vương Napoli năm 1701. Năm 1704, ông được sửa opera Irene của Carlo Francesco Pollarolo cho buổi diễn tại Napoli. Sau đó, cha ông gửi ông đến Venice. Năm 1709, ông đến Rome phục vụ Maria Kasimira, Nữ hoàng Ba Lan lưu vong. Ở đây, ông gặp Thomas Rozengreyva, nghệ sĩ organ người Anh, người sau này đã đón nhận nhiệt tình các bản sonata London của D. Scarlatti. Là nghệ sĩ đàn phím cự phách, D. Scarlatti đã tham gia cuộc thi tổ chức tại cung điện của Đức Hồng y Ottoboni ở Rome và được công nhận chơi tốt hơn Handel trên đàn phím nhưng thua Handel khi chơi organ.

Ở Rome, D.Scarlatti viết nhiều opera cho nhà hát của Nữ hoàng Kasimira. Từ 1715 - 1719, D. Scarlatti làm giám đốc âm nhạc tại Nhà thờ Thánh Peter và một năm sau, ông đi London dàn dựng vở opera Narcisco tại Nhà hát Hoàng gia. Khoảng năm 1720, D. Scarlatti đến Lisbon dạy nhạc cho công chúa Maria Magdalena Barbara. Ông trở lại Napoli năm 1725. Trong chuyến đi của ông đến Rome năm 1728, ông kết hôn với Maria Caterina Gentili. Năm 1729, Scarlatti đến Seville, nơi ông đã làm quen với nhạc flamenco. Năm 1733, ông đến Madrid dạy nhạc cho công nương Maria Barbara, người kết hôn với thành viên hoàng gia Tây Ban Nha. Tại Madrid, Scarlatti đã viết hơn 500 sonata cho đàn phím. Các tác phẩm được sáng tác trong thời kỳ Tây Ban Nha của D.Scarlatti được biết đến nhiều nhất hiện nay.

Các nhà soạn nhạc Ý đã đóng góp nhiều công lao vào việc hình thành và phát triển một khuôn mẫu và phong cách, sonata. Vào thế kỉ 16 và 17, sonata đã phát triển ở Ý bao gồm một số phần được phác họa rõ ràng theo các tốc độ và bố cục tương phản, như một phần kiểu vũ khúc được tiếp tục bằng một giai điệu chậm với bè đệm rồi được tiếp tục bằng một phần nhanh theo hình thức fugue.
Các phong cách sonata chính thời Baroque: 1. Sonata da chiesa (sonata nhà thờ): có 4 chương theo khuôn chậm-nhanh-chậm- nhanh và phản ánh tính phức tạp về âm nhạc của ricercare và canzone, các hình thức cũ hơn; 2. Sonata da camera (sonata thính phòng): một chuỗi các chương nhạc ngắn có nguồn gốc vũ khúc, là tiền thân của tổ khúc; 3. Trio sonata (sonata viết cho 3 nhạc cụ); 4. Solo sonata: thường viết cho các nhạc cụ violin, flute hay viola da gamba cùng bè continuo.


Nguồn: Thế An - Tia Sáng

 


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)

  • Nhạc và lời: NGUYỄN VĂN VŨ

  • TÔN THẤT BÌNH

    Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung thực nhất.

  • VĂN CAO
           Hồi ký

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.

  • TÂM HẰNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN  

    Tin từ Làng Mai Pháp quốc cho biết: Đêm giao thừa Thầy nói về Phạm Duy cho khoảng 70 cháu sinh viên Việt Nam về thăm Làng. Bài giảng này cũng là một loại hommage(1) cho Phạm Duy. Có thể nghe lại trên mạng chỗ Pháp Thoại online của Thầy vào ngày 30 Tết vừa rồi.

  • Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.

  • “Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”...

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Trong ý niệm của nhiều người từ hạng trí thức cao cho đến bình dân, ngoại trừ dân nghiên cứu dân tộc nhạc học, hát xẩm là một thể loại âm nhạc có xuất thân thấp kém, luôn gắn liền với hình ảnh của người khiếm thị và cây đàn nhị từ góc phố, sân đình hay bãi chợ. Nhắc đến hát xẩm, đa phần người ta liên tưởng ngay đến những ca từ mộc mạc, dung dị và lắm khi dung tục.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN 

    Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.

  • TRƯƠNG ĐÌNH NGỘ

    Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
    Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vi
    Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cữu tề phi
    Cao cao vượt hai hàng bóng vía


  • (Bản dịch của Trương Đình Ngộ)

  • NGUYỄN THỤY KHA

    Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.

  • ĐẶNG TIẾN “Bộ môn” Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại. Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ: kỹ thuật hiện đại cung cấp cho quần chúng - nhất là thanh niên - những phương tiện giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn những bài bản vần vè trước đây - dù sao cũng gắn liền với nếp sống nông thôn.

  • NGUYỄN HOÀN Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.

  • DƯƠNG BÍCH HÀDân tộc Tà Ôi, cũng như các dân tộc cư trú dọc Trường Sơn, âm nhạc là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, với đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thần linh.

  • NGUYỄN THỊ HỒNG SANHNgười ta gọi Trịnh Công Sơn là “sứ giả tình yêu”, “người tình của mọi thế hệ”, nhưng có lẽ chức danh “con người thi ca” mà nhạc sĩ Văn Cao yêu mến dành tặng cho ông là phù hợp hơn cả.

  • TrẦn thỊ AnCho đến nay, ca trù vẫn là một thể loại văn chương âm nhạc rất xa lạ với đông đảo đại chúng. Trong ấn tượng chung, ca trù là một sinh hoạt âm nhạc trước hết gắn với lễ lạt của các ông hoang bà chúa hay các miếu đền, sau nữa là thú ăn chơi ở dinh quan, thậm chí trở nên sa đọa và trụy lạc nơi ca quán.

  • NGUYỄN THỤY KHATừ sau "Đề cương văn hóa" của Đảng ra đời năm 1943 sáu chữ "Dân tộc - khoa học - đại chúng" đã trở thành tâm niệm của những chiến sĩ cách mạng làm công tác văn hóa. Song ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, rồi cả dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến thì cho đến trước chiến dịch Điện Biên, chữ "Dân tộc' trong "Đề cương văn hóa" vẫn chỉ được các nghệ sĩ khai thác ở những vốn cổ của người Kinh, trong đó có nghệ thuật âm nhạc.

  • NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.

  • VĂN THAO... Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.

  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.