Dù không được thính giả ngày nay biết đến rộng rãi như đồng nghiệp của các thời kỳ sau nhưng những nhà soạn nhạc thời kỳ Phục Hưng cũng để lại không ít dấu ấn trong kỹ thuật sáng tác cũng như trong cải tiến nhạc cụ biểu diễn.
Hai nhà soạn nhạc Guillaume Dufay (trái) và Gilles Binchois.
Trường phái Bourgogne
Guillaume Du Fay, hay Dufay (khoảng năm 1397 –1474) là người đã mở đầu một thế hệ mới trong âm nhạc với các tác phẩm âm nhạc nhà thờ và các bài hát thế tục. Một trong những bước đột phá của Du Fay là viết cho nhạc cụ như đàn lute, spinet, viola, virginal, sáo dọc, và đàn lira de braccio độc tấu chứ không chỉ để đệm cho ca sỹ hát. Ngoài ra, ông còn thay đổi thể loại bài hát sang các bản hòa âm, từ đó giúp cho các giai điệu có sự mượt mà hơn so với ca từ phức tạp của giai đoạn cuối Trung cổ. Du Fay không chỉ là nhạc sĩ mà còn là thầy của nhiều nhà soạn nhạc; ông đã dạy họ những hình thức cơ bản của hòa âm và truyền thụ nhiều kiến thức khác liên quan đến âm nhạc.
Ông là nhân vật trung tâm trong trường phái Bourgogne, được người đương thời đánh giá là nhà soạn nhạc hàng đầu châu Âu trong giai đoạn giữa thế kỷ 15, quan điểm này cho tới nay vẫn giữ nguyên giá trị của nó.
Trường phái Pháp - Flemish (Người Hà Lan)
Josquin des Prez (khoảng năm 1455–1521) được đánh giá là một trong những nhà soạn nhạc giỏi nhất và có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử âm nhạc phương Tây. Josquin từng được nhà thần học và nhà cải cách tôn giáo người Đức Martin Luther (1483 – 1546) hết sức ngưỡng mộ và tôn xưng là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất; không những thế, âm nhạc của ông còn được truyền bá khắp châu Âu, đặc biệt là Đức, nhiều thập kỷ sau khi ông qua đời. Kết cấu bài hát và cách đặt ca từ của Josquin đã đặt nền móng cho sự phát triển tiếp theo của kỹ thuật hòa âm. Tính biểu hiện cao trong nhạc phẩm của ông đã đánh dấu sự tách ly hoàn toàn khỏi truyền thống âm nhạc trừu tượng thời Trung cổ.
Các tác phẩm của Josquin là sự kết hợp hiếm có giữa sự sáng tạo và trình độ kỹ thuật bậc thầy, nhờ đó ông đã giành được vị trí là nhà soạn nhạc nổi bật nhất trong giai đoạn đầu thế kỷ 16, và là một trong những đỉnh cao của nền âm nhạc phương Tây.
Orlando di Lasso, hay Orlando Lassus, (khoảng năm 1530 – 1594) là nhà soạn nhạc đại diện cho phong cách phức điệu và được đánh giá là nhà soạn nhạc năng suất và đa tài nhất trong giai đoạn cuối thời kỳ Phục Hưng; ông đã sáng tác nhiều dòng nhạc khác nhau. Các tác phẩm của ông nổi bật vì mối liên kết hợp logic âm thanh với ca từ, từ đó hình thành nên một tổng thể nhất quán về âm nhạc. Ở thời đại Lasso, đây là một kỹ thuật khác thường, vì thế cũng không mấy ngạc nhiên khi ông được đặt cho những biệt danh như “Orpheus của Bỉ” hay “hoàng tử âm nhạc”.
Lasso sáng tác nhiều thể loại âm nhạc, bao gồm villanella, chanson, madrigal, motet, lied, hymns và lamentations. Các tác phẩm của ông bao gồm những bản satire, hay “những bài hát về niềm vui của cuộc sống” và “những bài hát buồn về tình yêu.” Ngoài ra, Lasso còn sáng tác một số nhạc phẩm thuộc thể loại thánh nhạc; tuy ít nhưng những tác phẩm này đã giúp ông trở thành những nhân vật được sùng kính.
Trường phái Roma
Giovanni da Palestrina (khoảng năm 1525-1594) là đại diện nổi tiếng nhất của trường phái Roma thế kỷ 16. Palestrina có sức ảnh hưởng lâu dài tới sự phát triển của âm nhạc nhà thờ, và các tác phẩm của ông được đánh giá là đỉnh cao của thể loại nhạc phức điệu thời kỳ Phục Hưng. Ông thậm chí còn được người đương thời tôn xưng là “Đấng Cứu thế của dòng nhạc nhà thờ” trong thời kỳ Cải cách Tin lành. Nhiều thế kỷ sau khi qua đời, âm nhạc của Palestrina vẫn được nhiều tín đồ sùng đạo trên thế giới tìm đến.
Gần đây, sự phát hiện nhiều nhạc phẩm bị lãng quên của các nhà soạn nhạc thời kỳ Phục Hưng như Orlande de Lassus và William Byrd với những nét đặc sắc riêng cho thấy họ cũng xứng đáng là gương mặt đại diện cho âm nhạc giai đoạn cuối của thời kỳ Phục Hưng. Song các học giả thế kỷ 20 và 21 nhìn chung đều thống nhất một quan điểm rằng Palestrina là nhà soạn nhạc thiên tài, âm nhạc của ông thể hiện đỉnh cao của sự hoàn hảo trong kỹ thuật sáng tác.
Trường phái Venice
Giovanni Gabrieli (khoảng năm 1557-1612) là nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ đàn ống nổi tiếng của Italy. Ông là một trong những nhạc sĩ có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất đương thời và là đại diện cho đỉnh cao phong cách sáng tác của trường phái Venice trong giai đoạn chuyển giao từ thời kỳ Phục Hưng sang Baroque.
Gabrieli thường sáng tác nhạc cho từng đội hợp xướng riêng, nhưng về sau ông càng có xu hướng phân biệt rõ loại nhạc cụ nào nên dùng cho từng đội hợp xướng, và đội hợp xướng nào chỉ cần sử dụng nghệ sĩ solo, đội nào nên biểu diễn toàn bộ hay phong cách cho từng đội là gì; với phương pháp này, ông đã tạo ra một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ đối với việc sáng tạo nên âm sắc và cách phối hợp trong âm nhạc.
Sự độc đáo trong âm nhạc của Gabrieli một phần đến từ mối gắn bó của ông với nhà thờ Thánh Mark tại Venice, một trong những nhà thờ quan trọng nhất châu Âu; ông đã sáng tác nhiều nhạc phẩm dành cho nhà thờ này.
Ngày nay, các tác phẩm khí nhạc của Gabrieli được đánh giá là đỉnh cao trong phong trào phát triển khí nhạc thế kỷ 16.
Thể loại Chanson Pháp
Gilles Binchois (khoảng năm 1400-1460) là nhạc sĩ cùng thời với Guilliame Du Fay, và là nhà soạn nhạc hàng đầu của trường phái Bourgogne trong giai đoạn giữa thế kỷ 15.
Binchois thường được đánh giá là người soạn giai điệu hay nhất của thế kỷ 15; những giai điệu của ông được viết cẩn thận, không những dễ hát mà còn rất dễ nhớ. Âm nhạc của ông đều có kết câu đơn giản và rõ ràng. Trong cả hai dòng nhạc thánh và nhạc thế tục, Binchois đều chú trọng tới tiết tấu nhẹ nhàng tinh tế, giai điệu du dương, và cách xử lý mượt mà đối với những điểm trái ngược trong những nhà soạn nhạc đương thời. Phần lớn các bài hát thế tục của ông đều thuộc thể loại rondeaux (một hình thức thơ Pháp, cùng với ballade và virelai là một trong ba hình thức thơ phổ nhạc vào cuối thế kỷ 13 tới thế kỷ 15), và trở thành hình thức thơ nhạc phổ biến nhất thế kỷ 15. Mỗi bài hát của ông đều được ví như một kiệt tác được viết trau chuốt từng lời, từng giai điệu. Ca từ trong các chanson của ông phần nhiều đều lấy ý tứ từ các bài thơ của nhiều nhà thơ nổi tiếng như Charles hay Duc d’Orléans. Âm nhạc của Binchois, đặc biệt là các bản chanson, được biết đến rộng rãi và là cảm hứng sáng tác cho các nhà soạn nhạc khác.
Thể loại Madrigal Ý
Luca Marenzio (1553-1599) là nhà soạn nhạc kiêm ca sĩ người Ý hoạt động trong giai đoạn cuối thời kỳ Phục Hưng. Ông là một trong những tác giả nổi tiếng nhất ở thể loại madrigal; ông đã có một số tác phẩm kinh điển thuộc thể loại này trong giai đoạn phát triển cuối của nó, trước khi nền âm nhạc chuyển sang thời kỳ Baroque. Tính tổng cộng, Marenzio đã viết khoảng 500 bản madrigal với phong cách đa dạng, từ nhẹ nhàng nhất cho tới nghiêm túc nhất; các bản madrigal của ông chứa đầy những ca từ mang tính tượng hình, hài hòa cùng nhiều đặc điểm khác của phong cách madrigal thời kỳ cuối. Marenzio rất khéo léo trong việc khơi gợi cảm xúc và trí tưởng tượng nhờ ca từ mang tính thơ ca trong các bản madrigal. Ông là người có ảnh hưởng quan trọng tới Claudio Monteverdi, nhân vật có vai trò lớn nhất trong việc sáng tạo nên thể loại âm nhạc mới, opera. Sức ảnh hưởng của Marenzio lan tới tận Anh, các tác phẩm của ông có mặt trong tuyển tập madrigal xuất bản năm 1588, Musica Transalpina, tuyển tập này đã tạo nên một cơn sốt madrigal tại Anh năm đó.
Thể loại Madrigal Anh
Thomas Morley (khoảng năm 1558-1602) là nhà soạn nhạc, nhà lý thuyết âm nhạc, ca sĩ, kiêm nghệ sĩ đàn ống trong thời kỳ Phục Hưng. Ông là một trong những tác giả tiêu biểu của thể loại madrigal Anh, được coi là cha đẻ của thể loại này. Ông là người đầu tiên và cũng là người có đóng góp lớn nhất trong toàn bộ quá trình “di chuyển” truyền thống madrigal Ý sang Anh; ông cũng là người có công đầu trong việc nhanh chóng truyền bá những phong cách và hình thức sáng tác madrigal Ý, biến chúng thành truyền thống của Anh.
Các sáng tác của Morley được viết theo hai phong cách riêng biệt. Là học trò của William Byrd, ông được đào tạo theo phong cách sáng tác mang đậm tính phức điệu của Anh giai đoạn trước madrigal; tuy nhiên, trong những nhạc phẩm được sáng tác trong thập niên 1590, Morley lại thể hiện tài năng bậc thầy theo phong cách madrigal Ý với đặc trưng là tính hiệu quả tức thời, giai điệu nhẹ nhàng hài hòa, tiết tấu sôi nổi, và ca từ rõ ràng.
Nguồn: Quỳnh Ca - Tia Sáng
NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.
VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
MẶC HY Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."
MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.
NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.
MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.
NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.
NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.
VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.
PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.
LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.
Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.
DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...
NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.
NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...
NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006
HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!
NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).