Các kiểu thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Một ngày dài hơn thế kỷ của Chinghiz Aitmatov

15:49 16/07/2008
HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

1. Trong nền văn học Xô Viết nhiều dân tộc (Liên Xô cũ), Chinghiz Aitmatov nổi bật là nhà văn lớn của dân tộc Kirghizia và Nga. Những sáng tác của ông viết bằng hai thứ tiếng (tiếng Kirghizia và tiếng Nga) như Giamilia, Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ, Vĩnh biệt Gunxarư, Con tàu trắng, Đoạn đầu đài…và đặc biệt là Một ngày dài hơn thế kỷ đã đưa danh tiếng của Ch.Aitmatov đến với toàn thế giới và ông được xếp vào trong số ít những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ XX. Không chỉ nổi bật ở lĩnh vực sáng tác văn xuôi, Ch.Aitmatov còn được nhiều người biết đến với tư cách là nhà viết kịch bản phim, chủ yếu được chuyển thể từ những tác phẩm của nhà văn. Ông là tác giả kịch bản những bộ phim được chiếu rộng rãi ở , Nga và nhiều nước trong Liên Xô cũ và cả ở nhiều nước khác. Đó là những bộ phim: Tiếng vọng của tình yêu (1974), Người thầy đầu tiên, Con chó khoang chạy ven bờ biển (1990), Một ngày dài hơn thế kỷ
Những sáng tác của Ch.Aitmatov nổi bật ở tình yêu đối với con người, thiên nhiên và cả loài vật, vì vậy nó mang ý nghĩa triết lý nhân sinh và giá trị nhân đạo sâu sắc. Hiện thực cuộc sống được tái hiện một cách sống động bằng một tư duy nghệ thuật đặc sắc của ông đã tạo nên một sự lôi cuốn, hấp dẫn và hứng thú đối với độc giả. Cùng với việc hướng đến và phản ánh những vấn đề hiện thực mang tính trữ tình lãng mạn thấm đẫm chất thơ và chất sử thi nhích dần đến với huyền thoại dân tộc; quan tâm những vấn đề mang tính đạo đức xã hội trên bình diện triết học ở tầm vĩ mô của cả loài người… sáng tác của Ch.Aitmatov nổi bật việc tái tạo thời gian nghệ thuật ở nhiều cấp độ khác nhau nhằm góp phần chuyền tải những tín hiệu thẩm mỹ đến với người đọc. Chính điều đó đã tạo nên phong cách Ch.Aitmatov và hệ thống thi pháp của nhà văn. Khảo sát những tác phẩm của ông, chúng tôi thấy xuất hiện các kiểu thời gian nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là trong tiểu thuyết Một ngày dài hơn thế kỷ.
2. Trong sáng tác văn học, thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều kích thước khác nhau và xuất hiện dưới những dạng khác nhau tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Nó gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật và như một hệ quy chiếu mang tính chất ẩn để phản ánh hiện thực, thể hiện tư duy của tác giả. Phạm trù thời gian nghệ thuật gắn với mỗi thể loại văn học nhằm cung cấp những cơ sở để phân tích cấu trúc bên trong của hình tượng văn học
Tiểu thuyết Một ngày dài hơn thế kỷ thể hiện một cách sinh động và phong phú các dạng thời gian nghệ thuật khác nhau mà nổi bật là ba kiểu thời gian: thời gian hồi tưởng, thời gian huyền thoại và thời gian sóng đôi. Thời gian một ngày nhưng chứa đựng các sự kiện và con người diễn ra trong suốt một thế kỷ. Đó là ngày đưa đám tang Kazangap và những hồi tưởng về quá khứ của nhân vật Êđigây. Thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai đan quyện với nhau xuyên suốt tác phẩm tạo nên một thời gian nghệ thuật đặc sắc gắn bó mật thiết với nhân vật chính của tác phẩm.
2.1. Thời gian hồi tưởng “bị quy định bởi điểm mốc của điểm nhìn trần thuật” và là thời gian được kể lại. Trong Một ngày dài hơn thế kỷ, điểm nhìn trần thuật được tác giả đặt vào nhân vật ở ngôi thứ ba - nhân vật Êđigây. Nhân vật Êđigây tự kể về mình, tự độc thoại với mình có sự xen kẽ của lời nhân vật và lời tác giả.
Trong nhiều trang văn, giọng điệu tác giả như hòa quyện vào giọng điệu của nhân vật: “Ôi những ngày ấy không bao giờ trở lại. Tất cả qua rồi, đã trôi qua đi như một giấc mơ. Và giờ đây trước mắt ta là một người lớn, con người này chỉ gợi nhớ một cách xa xăm về cậu bé ở cái tuổi thơ ngây kia - cậu bé có đôi mắt lồi và cái miệng hay cười; còn bây giờ thì con người ấy đã đeo kính trắng” [1-46]. Thời gian hồi tưởng của nhân vật được tác giả bắt đầu bằng những từ như; “Êđigây nhớ lại…” [1-28], “cùng nhau hồi tưởng lại…” [1-36], “lại nhớ đến…”, hay “Êđigây cứ hồi tưởng mãi…”. Chính sự tái hiện thời gian hồi tưởng bằng hình thức dẫn dắt như vậy đã giúp người đọc nắm bắt một cách chính xác các chiều thời gian. Thời gian hiện tại chỉ diễn ra trong một ngày - ngày đưa đám tang Kanganzap, nhưng qua sự hồi tưởng của Êđigây, cả một quãng thời gian dài đằng đẵng trong một thế kỷ hiện ra với biết bao sự kiện gắn với nhân vật chính và các nhân vật khác. Từ điểm mốc vào cuối năm 1944, Êđigây nhớ lại những sự kiện diễn ra trước và sau thời điểm đó liên quan đến chính cuộc đời của nhân vật. Cả một thế kỷ được tác giả dồn nén lại trong một ngày với biết bao những sự kiện diễn ra. Chính thời gian một ngày là thời điểm hiện tại và thời gian một thế kỷ là dòng thời gian quá khứ được tái hiện thông qua sự hồi tưởng của nhân vật Êđigây. Vì thế trong Một ngày dài hơn thế kỷ, thời gian quá khứ chiếm số lượng nhiều hơn cả so với thời gian hiện tại. Mặt khác, sự xuất hiện của thời gian hồi tưởng qua sự nhớ lại của nhân vật diễn ra với nhịp điệu khác nhau, có khi chậm rãi, dềnh dàng, khi gấp gáp được tính bằng từng phút từng giây.
Như vậy, từ điểm nhìn nghệ thuật của nhân vật trần thuật, thời gian hồi tưởng trong Một ngày dài hơn thế kỷ là một kiểu thời gian đặc trưng của tác phẩm góp phần vào việc tái hiện cuộc sống, đào sâu thêm thế giới nội tâm của nhân vật Êđigây.
2.2. Thời gian huyền thoại xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của Ch.Aitmatov, đặc biệt ở những tác phẩm Con tàu trắng, Con chó khoang chạy ven bờ biển, Vĩnh biệt Gunxarư, Đoạn đầu đài Một ngày dài hơn thế kỷ. Thời gian huyền thoại gắn với những truyền thuyết và huyền thoại của mỗi dân tộc. Là một dạng thức của thể loại Folklore cho nên thời gian huyền thoại là thời gian không xác định cụ thể, mang tính phiếm chỉ, bất biến. Các sự việc, sự kiện và con người xuất hiện trong các câu chuyện của tác phẩm không rõ ràng, cụ thể về thời gian. Ở Một ngày dài hơn thế kỷ, thời gian huyền thoại thường xuất hiện với những cụm từ như: “vào cái thời gian nào đó, bọn giặc Choang Choang đã đánh chiếm vùng đất này trong một thời gian dài” [1-198], “thời đó các thương gia thường qua lại… thời đó ở đây mưa nhiều…” [1-199], “ngày xưa, có những người sống ở rất xa…” [1-200], “vào những thế kỷ xa xưa…” [1-201]. Sự không xác định và mơ hồ về thời gian trong tác phẩm đã góp phần tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn của cốt truyện, đồng thời đưa người đọc bước vào một không khí cổ xưa của huyền thoại.
Nếu nhịp độ thời gian hiện tại và thời gian hồi tưởng diễn ra với những biến tấu khác nhau phụ thuộc vào điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện, mang tính chủ quan thì thời gian huyền thoại dường như không biến đổi. Tuy nhiên, nhằm hướng đến sự khách quan và chính xác, trong thời gian huyền thoại cũng thỉnh thoảng xuất hiện thời gian cụ thể, chi tiết: “Chỉ đến ngày thứ năm bọn giặc Choang Choang mới trở lại xem còn có người tù nào sống sót không…” [1-204], “và hai ngày bà quanh quẩn bên cạnh Mahakumđưsap luôn luôn lo sợ sẽ phải đụng đầu với bọn giặc Choang Choang” [1-221]. Những chi tiết cụ thể của thời gian huyền thoại không hề phá vỡ lôgic của kiểu thời gian huyền thoại mà chính sự đan xen đó đã đem lại một sức hấp dẫn mới đối với người đọc làm cho họ tin hơn vào những điều được tác giả mô tả. Câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn và bi kịch của chàng Rajmaly và Beginaj cũng diễn ra trong một khoảng thời gian không xác định. Những cụm từ “một hôm…”, “hôm ấy…”, “trời đã ngả về chiều…” trong tác phẩm nhằm diễn tả tính không xác định và cụ thể về thời gian diễn ra mối tình của hai người. Những yếu tố thực, hư mang tính kỳ ảo đó, một mặt đưa người đọc bước vào một thế giới mờ ảo của huyền thoại lung linh, mặt khác góp phần vào việc khám phá thế giới nội tâm phong phú và đa dạng của tâm hồn con người. Sự sắp xếp các lớp thời gian huyền thoại tạo nên nhiều lớp nghĩa mang tính đa thanh làm cho tác phẩm chứa đựng nhiều ý nghĩa triết lý nhân sinh sâu sắc.
Sử dụng thời gian huyền thoại như một thủ pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng trong tác phẩm Một ngày dài hơn thế kỷ, Ch.Aitmatov đã tạo cho mình một phong cách riêng, độc đáo trong việc nắm bắt và thể hiện cuộc sống.
2.3. Thời gian sóng đôi là một kiểu thời gian đặc biệt trong tiểu thuyết Một ngày dài hơn thế kỷ. Nếu thời gian hồi tưởng và thời gian huyền thoại thuộc về quá khứ thì thời gian sóng đôi thuộc về hiện tại. Thời gian sóng đôi là trong cùng một thời điểm cụ thể có nhiều sự kiện cùng diễn ra trên một phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Trong tác phẩm Một ngày dài hơn thế kỷ, có sự đan cài nhiều tuyến cốt truyện gắn với những nhân vật và sự việc khác nhau. Thoạt nhìn tưởng như nó tách bạch không liên hệ với nhau, nhưng nếu đặt trong một khoảng thời gian cụ thể và trong một không gian định hình thì thấy rõ sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Thời gian tuyến cốt truyện của những con người cần cù lao động trên trái đất ở tuyến đường sắt vùng thảo nguyên Xarư-Ôzek có quan hệ với tuyến cốt truyện vũ trụ nói về các nhà khoa học và du hành vũ trụ Nga - Mỹ trên hành tinh Ngực Rừng. Thời gian diễn ra đám tang Kazangap cũng là ngày diễn ra những biến cố xảy ra trên trạm “Pariter”. Nhà văn khéo léo đặt hai sự việc xa nhau đó trong cùng một thời gian nhất định: “Trong cùng khoảng thời gian Êđigây bàn giao công việc và cùng với Edinbai Cao kều trao đổi về những việc vừa xảy ra… Đúng vào các giây phút ấy, trên không trung bỗng loé lên một vệt sáng và tiếp theo là một tiếng nổ rền như ta thường thấy ngoài mặt trận, làm đất rung lên” [1-38]. Hai sự kiện đó cùng diễn ra một lúc vào nửa đêm khi mọi người trở về nhà sau đám tang Kazangap. Để diễn tả thời gian sóng đôi, trong tác phẩm nhà văn thường dùng các cụm từ: “đúng giờ phút ấy…” [1-38]. “cũng vào giờ này…” [1-76], “vào giờ phút ấy…” [1-54]… Chính việc dùng các cụm từ để chỉ thời gian cùng lúc xảy ra các sự kiện đã làm cho các sự việc, con người ở xa nhau nhưng vẫn có mối liên hệ với nhau tạo nên một cái nhìn mang tính tổng thể ở phạm vi vĩ mô của tác phẩm. Việc đặt một con người lao động bình thường nhưng cần mẫn như Êđigây ở tuyến đường sắt xa xôi bên cạnh sân bay vũ trụ; cái vành đai bằng da lạc đà bao quanh đầu những người nô lệ cũng chẳng khác gì vành đai tên lửa bao bọc quanh trái đất của các siêu cường trong cuộc đối đầu chiến tranh lạnh… tất cả nhằm làm nổi bật vai trò lao động, sự gắn bó giữa con người với nhau và phê phán việc chạy đua vũ trang của các quốc gia mạnh. Điều này vừa mang ý nghĩa triết lý sâu sắc vừa là lời thức tỉnh lương tri của con người, đặc biệt là những quốc gia lớn trong việc “vũ trang hoá” hành tinh trái đất.
Tạo nên kiểu thời gian sóng đôi, Ch.Aitmatov đề cập đến những vấn đề mang tính thời sự của nhân loại và hướng đến một vấn đề lớn hơn là: con người phải được sống chung trong một bầu không khí thoải mái, hiểu biết lẫn nhau, không có sự phân biệt và mỗi cá nhân và cả loài người phải có trách nhiệm đối với hành tinh mà mình đang sống. Thông điệp mà tác giả nhắn gửi là phải bảo vệ hành tinh chúng ta.
3. Các kiểu thời gian biểu hiện trong Một ngày dài hơn thế kỷ rất phong phú với nhiều dạng thức khác nhau. Sự phân chia của chúng tôi như trên cũng chỉ là một hướng tiếp cận. Sáng tác của Ch.Aitmatov là những chỉnh thể nghệ thuật đặc sắc lấp lánh sắc màu tạo nên phong cách độc đáo và đưa ông trở thành nhà văn nổi tiếng. Để làm nên giá trị tác phẩm, bên cạnh xây dựng thời gian nghệ thuật, tác giả còn sử dụng nhiều yếu tố nghệ thuật khác.
Những sáng tác của Ch.Aitmatov trong thế kỷ XX đã trở thành quá khứ, nhà văn đã từ giã cõi đời, nhưng những giá trị nghệ thuật của Một ngày dài hơn thế kỷ nói riêng và toàn bộ sáng tác của ông nói chung vẫn là di sản văn học quý giá đối với nền văn học Xô Viết nhiều dân tộc và vẫn lay động trái tim người đọc nhiều thế hệ.
H.V.L

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.