Huế đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Ca Huế không chỉ phản ánh dòng chảy lịch sử, di sản này còn là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa tạo nên một âm sắc Huế, rất riêng.
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền Huế tồn tại hai dòng: dân gian và bác học. Do ảnh hưởng đặc điểm lịch sử văn hóa Việt Nam, dòng âm nhạc bác học được chia thành hai bộ phận: Âm nhạc cung đình và ca Huế. Ca Huế, với hệ thống bài bản có cấu trúc chặt chẽ, đòi hỏi kỹ năng diễn tiếu điêu luyện của ca công và nhạc công, có xuất xứ từ âm nhạc cung đình nên mang phong cách sang trọng, tao nhã, nhưng cũng đậm đà phong vị dân gian. Đây là bộ phận âm nhạc đặc sắc, có ý nghĩa quan trọng trong tổng thể nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam, không chỉ bởi sự in đậm bản sắc Huế, mà còn mang dấu ấn “hội tụ và lan tỏa” trong lịch sử âm nhạc dân tộc.
Từ cái gốc của nhã nhạc cung đình, theo nhu cầu xướng ca ngâm vịnh giải trí của giới quý tộc, các vương tôn quốc thích quan lại dưới thời các chúa Nguyễn và vua Nguyễn đã tổ chức các chương trình diễn xướng, đàn ca trong các dinh phủ. Vào khoảng thế kỷ 17, 18, hình thức diễn xướng đàn ca này, ban đầu chỉ với các bài bản được lấy từ tế nhạc cung đình như: Ngũ đối thượng, ngũ đối hạ, 10 bản ngữ thập thủ liên hòan... dần dần được sáng tác bổ sung thêm nhiều bài bản và hình thành nên một thể loại ca nhạc thính phòng, gọi là ca Huế. Đến nửa đầu thế kỷ 19, thời vua Tự đức, ca nhạc Huế phát triển cực thịnh với nhiều sáng tác mới của các ông hoàng, bà chúa, các văn nhân, nho sĩ quan lại, các nhạc công tài năng trong kinh đô Huế. Và với hệ thống bài bản được chau chuốt, tổ chức chặt chẽ mang tính chuyên nghiệp bác học cả về âm nhạc, niêm luật, loại thể và ca từ, ca Huế đã khá hoàn chỉnh tạo nên một dòng âm nhạc chuyên nghiệp độc đáo trong sinh hoạt nghệ thuật đàn ca của giới quý tộc.
Có thể nói, nếu kinh đô Thăng Long xưa, từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền có nguồn gốc dân gian là hát ả đào vẫn thịnh hành dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở đàng trong phát tán thành một lối gọi là ca Huế, gồm cả ca và đàn. Vậy cũng có thể gọi ca Huế là một lối hát ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân, Huế.
Sang nửa cuối thế kỷ 19, ca Huế dần được truyền bá rộng ra ngoài dân gian và được bổ sung những điệu hò, điệu lý trong dân ca Bình Trị Thiên. Do đó trong ca nhạc Huế ngày nay thường thấy sự đan xen liên kết giữa những điệu hát dân gian và những bài hát có nguồn gốc cung đình. Trong ca nhạc Huế, yếu tố khí nhạc đã phát triển cao để có thể trình tấu những tiết mục khí nhạc thuần túy, như hòa tấu của dàn bộ ngũ tuyệt, Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam, xen với Bầu, Sáo và bộ gõ trống Huế, sanh loan, sanh tiền.
Khi hình thành đến độ hoàn chỉnh, ca Huế là một hệ thống bài bản phong phú gồm khoảng hơn 30 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc được viết và diễn tấu theo hai điệu thức lớn gọi là điệu bắc và điệu nam. Bên cạnh đó còn có một hệ thống bài bản gọi là Nam xuân mà nhiều người gọi là hệ thống các bài bản lưỡng tính, vì nó pha trộn tính chất của hai điệu chính là điệu bắc và điệu nam. Đi vào tính chất của từng điệu trong các bài bản ca Huế có thể thấy, điệu bắc gồm những bào ca mang âm điệu tươi tắn, trang trọng thể hiện cái gốc của âm nhạc từ phía Bắc theo chân các vua quan du nhập vào.
Nam tiến vào đàng trong từ thời nhà Trần rồi vua Lê chúa Trịnh cho tới các chúa Nguyễn, vua Nguyễn. Điệu nam là những điệu có âm điệu buồn, nỉ non, ai oán, thể hiện niềm thương nỗi nhớ của những người xa quê, nhớ về gốc gác tổ tiên ở đàng ngoài. Điệu Nam xuân mà nhiều người gọi là hệ thống lưỡng tính là các bài bản pha trộn cả điệu bắc và điệu nam, không vui không buồn, bâng khuâng mơ hồ. Ngoài hai điệu chính và các bài bản nam xuân trong ca Huế còn có một sắc thái tình cảm mà các nghệ nhân gọi là hơi dưng. Nó không phải là một hệ bài bản riêng, mà nó dựa vào một vài bài bản trong các điệu bắc và điệu nam nhưng thay đổi cách hát từ vui sang buồn. Đây chính là sự đặc biệt và độc đáo của ca Huế mà không một loại hình nghệ thuật ca nhạc nào có được. Kiểu hát theo hơi dưng này đã tạo điều kiện cho các nghệ sỹ ca và đàn được diễn tấu diễn xướng theo cảm hứng, cảm xúc của mỗi người ở mỗi thời điểm biểu diễn. Điều này làm cho các bài bản ca Huế được biểu diễn mỗi lần mỗi khác chứ không hoàn toàn giống nhau như các loại hình ca nhạc khác. Từ lối thưởng thức kiểu thính phòng trong tư dinh của giới đại gia, khoa bảng, thành được trình diễn trong một không gian nhỏ, đầm ấm, gần gũi, có thể là một phòng khách, với đôi ba chén trà, ly rượu... người biểu diễn và thưởng thức ngồi cạnh nhau như tri âm, tri kỷ; trong không gian như vậy, tất cả như ngưng đọng khi, con người và âm nhạc hòa quyện nhau trong mùi trầm hương phảng phất, hư hư thực thực, nhất là vào những đêm khuya, những điệu ca được cất lên như mê hoặc, có sức diễn tả cao, thâm trầm, da diết, làm say đắm lòng người...
Dần dần, không gian diễn xướng được mở rộng, chan hòa vào các sinh hoạt văn nghệ dân gian, từ những căn phòng ngào ngạt trầm hương, ca Huế ra với dòng Hương bàng bạc ánh trăng, sương đêm phủ nhẹ trên mái chèo cùng với giọng ca thổn thức, tiếng đàn nỉ non, thao thiết trong làn gió nhẹ, làm cho tri âm, tri kỷ không muốn rời nhau...
Sự kết hợp hài hòa của hai luồng giao thoa đó đã làm cho ca Huế có một phong vị đặc biệt, theo GS Tô Vũ, “không những thỏa mãn được yêu cầu thẩm mỹ của giới quý tộc phong lưu, các sĩ phu phong kiến (ngày trước), mà còn được quần chúng nhân dân (lao động) hâm mộ nâng niu...”. Mối tương quan giữa ca Huế và âm nhạc dân gian - nhất là lý Huế, chỉ có tính cách tương đối chứ không phải rạch ròi, nếu người nghe không “sành điệu” thì phân biệt đâu là ca Huế, đâu là dân ca.
Yếu tố quan trọng khác đã tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa âm nhạc dân gian và ca Huế (cũng như âm nhạc cung đình) là chính các nhạc công, ca công chuyên nghiệp hầu hết là nghệ nhân tài hoa, trưởng thành từ dòng âm nhạc dân gian - bên cạnh đó, đội ngũ nghệ nhân dân gian là một lực lượng hùng hậu làm phong phú và nuôi dưỡng ca Huế; có thể nói: Ca Huế là nhịp cầu nối giữa cung đình và dân gian.
Ca Huế là sản phẩm của Huế, mang đặc thù sắc thái địa phương hòa quyện cùng tính bác học. Theo lịch sử chúng ta thấy rất rõ hiện tượng âm nhạc Huế thâm nhập, ảnh hưởng trở lại cội nguồn phía Bắc (Sân khấu chèo: Vở Tuần ty đào Huế sử dụng nguyên xi điệu Hành vân, Lí giao duyên của Huế, và trong sáu hệ thống của chèo, có hệ thống hơi Huế...) đồng thời, theo bước chân Nam tiến của những lưu dân khai hoang lập đất, của các binh lính mở mang bờ cõi... tạo nên ảnh hưởng không nhỏ đối với âm nhạc Nam Trung Bộ (Tuồng: Nam ai, Nam bình... hoặc khai thác các điệu Lý Huế trong các kịch bài chòi...) ở Nam Bộ (Tài tử: Tứ đại, Phú lục... Cải lương: Lưu Thủy, Kim tiền... hoặc các nhạc công ở ban nhạc Tài Tử hòa nhạc Huế...).
Đặc biệt, vào nửa đầu thế kỷ 20, ca nhạc Huế đã được sân khấu hóa để trở thành một loại hình sân khấu truyền thống mới của người Việt, đó là ca kịch huế. Đây cũng là sự phát triển độc đáo của ca nhạc huế góp phần làm phong phú thêm nghệ thuật dân gian và hiện đại của Việt Nam. Sự ảnh hưởng của ca nhạc Huế có ví trí quan trọng trong việc hình thành nhiều thể loại kịch hát dân tộc, đây là một hiện tượng vô cùng hiếm thấy, ví như một cái gốc lớn đã nảy sinh nhiều cành là xanh tươi mà mỗi cành có một vẻ đẹp riêng...
Mặc dầu sinh trưởng trong khuôn vàng thước ngọc, ca Huế vẫn không hoàn toàn bị ràng buộc bởi những khuôn khổ, quy tắc nghiêm ngặt của âm nhạc bác học, mà vẫn thể hiện tính sinh động, mềm dẻo (tương đối) của nó khi ở thính phòng cũng như khi lên sân khấu sau này. Ca Huế đem lại cho người nghe những cảm xúc êm dịu, khỏe đẹp, trong sáng, tạo nên sự đồng cảm của con người, ca ngợi quê hương, đất nước. Theo GS-TS Trần Văn Khê, ca Huế với những giọng ca tuyệt vời của các nghệ nhân "khi thì êm dịu như hương thơm tỏa ra từ một bông hoa, khi thì xót xa như giọng người đang khóc, khi thì uể oải như những cái nhìn nào đó của người đàn bà trong những đêm hè oi ả, khi thì vui vẻ - trường hợp này cũng họa hoằn thôi; giống như tiếng lao xao của bầy chim trong mùa xuân... đã thấm vào thể xác và tâm hồn bạn, đã len vào trong mạch máu của bạn, làm cho khắp người bạn phải rùng mình, khoái trá...". Như thế, cũng đủ biết sự sâu lắng, trữ tình của ca Huế làm rung động, cuốn hút người nghe sâu sắc như thế nào!
Có thể khẳng định, Ca huế là loại hình di sản văn hóa phi vật thể hết sức đặc sắc, tiêu biểu và riêng có của huế trong nền âm nhạc Việt Nam. Sức sống mãnh liệt của ca huế đã ăn sâu rộng trong quần chúng tiềm ẩn trong dòng chảy văn hóa dân tộc.
Xin được trích lời của dịch giả Bửu Ý khi nói về giá trị của loại hình nghệ thuật hiếm có này. "...Ca Huế xoáy vào ký ức, xoáy vào tiềm thức. Nó cày cuốc vào đất đai, dòng sông, giếng nước. Nó đánh thức chiếc nôi, khóm tre, mái đình. Người nghe tự mình xâu chuỗi bao nhiêu năm tháng đã trôi qua trong đời mình như một cuốn phim dài tự sự cũ kỹ đã có nhiều hình ảnh bôi nhòa. Khi ca Huế cất giọng thì mọi xao náo của đời sống thường ngày dừng lại ở bên ngoài, chẳng khác nào sinh hoạt của hiện tại không thể nào hòa lẫn vào sinh hoạt của quá khứ đang dần dà sống lại, tái hiện như từng ô hình, mảnh khảm...".
Nobel văn học 2017: Sự trở về với những nỗi niềm nhân bản. Những tác phẩm của tiểu thuyết gia Kazuo Ishiguro đã “khai mở vực sâu khôn cùng trong sự kết nối bằng cảm quan bồng bềnh của chúng ta với thế giới”. Sơ khảo giải Nobel văn học từ năm 2010 đến nay, phần nào cho thấy sự sống dậy của chủ nghĩa hiện đại, cũng là sự sống dậy của chủ nghĩa siêu hiện đại “sau mối hoài nghi kinh niên của hậu hiện đại về một tinh thần thời đại/siêu tự sự”. Đó đồng thời cũng là dòng chảy âm thầm và mãnh liệt của tính nhân bản - một yếu tố cốt tủy vĩnh hằng của nghệ thuật mà thời đại “văn minh” dường như đang làm tan loãng nhạt nhòa để tiếp sức cho sự lên ngôi của những giá trị vật chất phủ lên chiều tâm linh mầu diệu hun hút dự sẵn trong mỗi con người.
Tháng Mười trở về trong hơi thu với lá vàng buông mình trong gió. Cuộc hiến dâng của những trái tim nhạy cảm vang lên diệu âm của nỗi buồn và một phần nhỏ nhoi bí mật đàn bà. Những vần thơ của các tác giả nữ trên ba miền trong số báo tháng 10 gửi vào hư vô lời tự trầm day dứt và ẩn sâu trong nó là những câu hỏi không thể trả lời.
Những trang thơ đượm hơi thở biển khơi và rừng núi trong số này, được sáng tác từ các chuyến đi thực tế trong mùa hè vừa qua ở biển Vinh Hiền và rừng A Lưới, sẽ là những trang thơ đẹp do các cây bút từ Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế chuyển đến.
Kỷ niệm 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, mở đầu cho số báo này là bài viết: “Cuộc gặp gỡ giữa hai danh nhân văn hóa”, nêu sự kiện trở thành dấu son của lịch sử nước nhà: Trước lúc lên đường sang Paris với vai trò là thượng khách của chính phủ Pháp, Hồ Chủ tịch đã tin tưởng ủy thác, giao Quyền Chủ tịch Nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng gánh vác với phương châm xử thế “dĩ bất biến ứng vạn biến” giữa thời đoạn đất nước trước hiểm họa “ngàn cân treo sợi tóc”... Điều đáng lưu ý nữa là nhân trong bài viết này, tác giả Dương Phước Thu đã sưu tầm được tác phẩm cuối cùng của nhà báo, liệt sĩ Thúc Tề đăng trên tờ Quyết Thắng số 56 ra ngày 20/7/1946, nhan đề BUỔI DIỆN KIẾN ĐẦU TIÊN GIỮA CỤ HỒ CHỦ TỊCH VÀ CỤ HUỲNH THÚC KHÁNG. Sông Hương giới thiệu nguyên văn bài báo quan trọng này đến bạn đọc.
Thừa Thiên Huế trong Cách mạng Tháng Tám mang một tầm quan trọng đặc biệt. Chính quyền về tay nhân dân, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời ra đời, triều đại phong kiến tan rã… Bài viết “Tháng Tám vùng lên Huế của ta” nhắc lại những mốc son chói sáng trong dịp kỷ niệm cuộc cách mạng có tác động lớn đến ý thức cách mạng của quần chúng; đây cũng là dịp gợi nhắc chúng ta nhớ đến những tác phẩm văn học đầy hào khí được sáng tác trong “Ngày hội non sông” và cả sau này.
Đang là những ngày hướng đến kỷ niệm dấu ấn giá trị văn hóa của một tờ báo lừng lẫy, Sông Hương tổ chức chuyên đề “100 năm Nam Phong tạp chí”. Chuyên đề nhấn mạnh đến các giá trị văn hóa, những đóng góp lớn của Nam Phong tạp chí vào sự chuyển hướng văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỷ: cổ súy cho nền văn học mới từ bước khởi đầu; đóng góp về mặt ngôn ngữ trong khai triển ý niệm tiếp nhận văn minh phương Tây, trong nghiên cứu khoa học… qua sự phổ biến và sáng tạo thêm chữ quốc ngữ, đẩy tới một bước mới sự tiến bộ của câu văn xuôi tiếng Việt - văn xuôi nghệ thuật và văn xuôi nghị luận, tranh biện…
SHO - Sáng ngày 4/7, Liên đoàn Lao động tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức Hội nghị triển khai và phát động Cuộc thi ảnh nghệ thuật - thời sự về giai cấp công nhân Công đoàn Thừa Thiên Huế.
Kỷ niệm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6 năm nay, Tạp chí Sông Hương giới thiệu đến quý bạn đọc một số tư liệu vừa tìm thấy liên quan đến tuần báo Sông Hương cả hai thời kỳ: thời kỳ do Phan Khôi làm chủ bút và thời kỳ Sông Hương tục bản do Nguyễn Cửu Thạnh quản lý.
Tiếng ve đã sôi trên các ngõ đường, Huế đang vào sâu mùa hạ giữa những chuỗi ngày biến đổi khí hậu toàn cầu diễn ra mạnh mẽ. Song mùa hạ bên sông Hương vẫn vời vợi mùa của hoa phượng nhắc nhở về những cuộc lục tìm dấu tích xa xưa, bởi một vùng đất khi đã bỏ quên ký ức, nó sẽ trở thành vùng đất chết.
Nằm trong chương trình Tình Sông Hương, sáng ngày 29/05, Tạp chí Sông Hương phối hợp với Siêu thị Co.op-mart Huế, Đoàn TNCS phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Thừa Thiên Huế trao 15 suất quà cho các em học sinh nghèo vượt khó tại trường tiểu học số 2 Hương Chữ (Thị xã Hương Trà) nhân dịp nhà trường tiến hành lễ tổng kết và phát thưởng năm học 2016 - 2017.
Vào lúc 19h30 ngày 27/05, lễ khai mạc và trình chiếu bộ phim đầu tiên trong tuần lễ phim Đan Mạch đã được diễn ra tại rạp Đông Ba (187 Trần Hưng Đạo) thu hút đông đảo người xem đến dự. Thời gian trình chiếu các bộ phim trong tuần lễ sẽ diễn ra từ ngày 27/05 đến ngày 04/06/2017.
Vào lúc 15h ngày 25/05, nhân dịp lễ tổng kết và phát thưởng năm học 2016-2017 tại trường tiểu học Huyền Trân (phường An Tây), Tạp chí Sông Hương đã phối hợp cùng với Siêu thị Co.op-mart Huế trao 15 suất quà cho các em học sinh nghèo vượt khó của trường.
Ngày 24/5, tại địa điểm di tích Hải Vân Quan, tỉnh Thừa Thiên-Huế và thành phố Đà Nẵng đã tổ chức Lễ đón Bằng xếp hạng Di tích quốc gia Hải Vân Quan, theo Quyết định 1531/QĐ-BVHTTDL ngày 14/4/2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Vào sáng ngày 18/05, nằm trong khuôn khổ các hoạt động nhân ngày Quốc tế Bảo tàng, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức khai mạc triển lãm tranh của họa sĩ Đặng Mậu Triết với chủ đề “Vọng” tại Trường lang Đại Cung môn (Đại Nội – Huế).
Vào lúc 14h ngày 20/05, tại phòng triển lãm thuộc trường Đại học Nghệ thuật Huế đã diễn ra buổi triển lãm của hai nghệ sĩ trẻ Phan Vũ Tuấn và Phan Đình Khánh mang tên “Chuyện chưa kể”.
Nhằm ôn lại truyền thống lịch sử và ghi nhận công lao đóng góp của đồng chí Hoàng Lanh – Nguyên Bí thư Thành ủy Huế (1977-1988) đối với phong trào cách mạng thành phố Huế, vào lúc 14h ngày 19/05, Ban Tuyên giáo Thành ủy Huế đã tổ chức buổi giới thiệu và tặng sách “Bí thư Thành ủy Hoàng Lanh với phong trào cách mạng thành phố Huế” (Hoàng Lanh kể, Nguyễn Quang Hà ghi) do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành.
Vào lúc 9h ngày 19/05, Sở Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế và Đại diện lãnh đạo Công ty CP Vận tải Đường sắt Hà Nội (HARACO) đã có buổi làm việc và thống nhất một số nội dung trong biên bản hợp tác phát triển du lịch giữa các bên nhằm thực hiện “Chương trình liên minh kích cầu du lịch vận chuyển bằng đường sắt” nhằm phối hợp, quảng bá, tiếp thị điểm đến du lịch trong nước nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng.
Tối 16/5, tại Quảng trường Trung tâm huyện A Lưới, Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND huyện A Lưới tổ chức Lễ khai mạc “Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc miền núi” tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XII, năm 2017.
Sáng 10/5, Sở Văn hóa, Thể thao phối hợp với UBND huyện A Lưới tổ chức họp báo về Ngày hội "Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc miền núi" tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XII - 2017.