Đọc ‘Duyên’ - tập kịch bản sân khấu của Ngọc Bình

15:24 07/03/2025
Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

Dường như tất cả các lĩnh vực sân khấu mà Ngọc Bình có can dự vào, đều đem lại những thành công nổi bật, góp phần tạo nên chân dung của một nghệ sĩ suốt cả cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật sân khấu. Viết, diễn, dàn dựng... với nhiều thành công, đến nỗi anh bỏ quên những kịch bản do mình sáng tác, thậm chí có cái sau khi diễn xong kịch bản đã trôi theo mùa diễn hoặc lâu ngày tản mác, rơi rụng theo thời gian không còn lưu lại được gì. Gần đây, nhiều bạn bè, đồng nghiệp động viên, thậm chí thúc bách, anh đã “chọn đại” (như cách nói của anh!) 7 kịch bản, trong số nhiều kịch bản mà anh đã sáng tác và dàn dựng còn lưu lại, để làm nên tuyển tập kịch bản có tên là Duyên này.

Tuyển tập này có 4 kịch bản kịch nói, 3 kịch bản ca kịch, khai thác về nhiều mảng đề tài khác nhau: những cảm xúc và cung bậc đa dạng về tình yêu (Vòng xoáy những cuộc tình, Nốt lặng thời gian, Hoa rừng); hoặc mối tình đằm thắm của hai số phận trong chiến tranh, hai con người ở hai chiến tuyến, phải vượt qua nhiều thử thách để đến được với nhau (Duyên); cuộc chiến đấu dũng cảm, ngoan cường trong những cuộc chiến tranh yêu nước (Dòng sông đỏ, Lưỡi gươm chinh phạt) và những mưu mô, thủ đoạn nhằm tranh giành quyền lực trong nội bộ triều đình thời phong kiến (Sương phủ hoàng cung). Nhìn từ góc độ loại hình, người ta lấy hình thức vật chất của tác phẩm để phân loại, chúng ta có 8 loại hình nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, kiến trúc, sân khấu, văn học, điện ảnh, nhiếp ảnh. Riêng với văn học, dựa vào phương thức phản ánh để phân loại, có 3 loại thể văn học là tự sự, trữ tình và kịch. Ngôn ngữ chính văn của văn học kịch (kịch bản văn học) là mâu thuẫn, xung đột và tính cách nhân vật. Bởi vậy, đối với sân khấu, không chỉ cần đến kịch bản hay, mà điều quan trọng hơn là vai trò của diễn viên. Chính diễn viên mới là hằng số nghệ thuật, là chủ thể thổi hồn vào văn bản tác phẩm, biến những con chữ lạnh lùng đôi khi như những đàn kiến bò qua dưới mắt người đọc trong kịch bản văn học trở thành một sinh thể nghệ thuật sống động trên sân khấu. Thì đây, trước tiên hãy quan sát năm nhân vật tham gia vào vòng xoáy của Ngọc Bình đều là những trí thức như kỹ sư, nhạc sĩ, ca sĩ, giáo viên nhưng do xuất thân khác nhau, quan niệm và lối sống khác nhau, hình thành nên những tính cách khác nhau, tạo ra những mâu thuẫn và xung đột khó hòa giải. Họ chỉ có một điểm chung: đều là những con người kiêm ái, đều chạy theo tình yêu theo mô hình kích cầu của một trò chơi Domino: Sanh yêu Phương Linh, Phương Linh yêu Vân Phi, Vân Phi yêu Thùy Dung, Thùy Dung yêu Toni Thuần, Toni Thuần yêu chính bản thân/ đời sống của anh ta, với lối sống phóng đãng, yêu mỗi người một thời gian rồi chuyển sang yêu người khác... Họ đều là nạn nhân của nhau, của quan niệm và lối sống quá hiện đại, vô trách nhiệm của chính mình, và gieo rắc bất hạnh lên cuộc đời của con cái họ là cháu Hoài, đứa con của mối tình đầu tha thiết giữa Vân Phi và Thùy Dung. Mâu thuẫn được đẩy lên đến mức cao trào và chỉ được giải quyết bởi sự tự sát của Thùy Dung, khi cô nhìn lại bản thân mình trong niềm ân hận cháy bỏng: “Con người ta sống để làm gì? Thường thì người ta sống để được yêu, vì yêu; sống vì được trọng vọng, vì người khác cần mình, như người đàn ông sống vì được người đàn bà cần mình; chồng sống vì vợ, cha sống vì con; còn tôi, tôi không được sống vì ai cả, và cũng chẳng có ai vì tôi. Cái quyền được vì nhau của tôi đã mất rồi, người đời có cần sự hiện diện của tôi đâu”. Ở một phía khác, mối tình giữa đạo diễn Hùng và diễn viên Hương trong Nốt lặng thời gian cũng đi vào ngõ cụt, bởi vì Hùng đã có vợ, nhưng người vợ là do sự sắp xếp của hai gia đình, già và lớn hơn anh đến bảy tuổi. Đó là kiểu tình yêu dễ dẫn đến bi kịch, nếu không có sự bừng tỉnh của mỗi người, với tấm lòng vị tha, nhân ái nhân văn và đầy tinh thần trách nhiệm. Ở đây, người đọc đã bắt gặp các lớp chồng lên nhau, truyện chồng lên truyện, vở diễn chồng lên vở diễn, làm tăng thêm độ bi thảm của cuộc đời. Bi kịch lớn hơn trong tình yêu là câu chuyện Hoa rừng. Lùi vào khoảng thời gian xa hơn, khi người Pháp còn đô hộ nước ta, cô bé mồ côi Phương Thảo được chúa bản của người dân tộc thiểu số nuôi lớn, xinh đẹp như đóa hoa rừng. Cô yêu chàng H-Oai nhưng không được chấp nhận, hai lần chạy thoát khỏi sự bắt ép hôn nhân của những cha mẹ nuôi, bị cưỡng bức, rồi trở thành kẻ thủ ác trong một lần tự vệ chống lại người cha nuôi đã cưỡng bức cô, cuối cùng phải tự sát trước phiên tòa xét xử mình. Đây là tiếng chuông báo động về lối sống phi nhân tính của con người, nhất là lớp người có tiền và có quyền lực; là một kết thúc bi thảm mang màu sắc phạm trù thẩm mỹ của cái bi: cái đẹp thánh thiện luôn bị rình rập hủy diệt, nhưng cái chết của cái đẹp không bao giờ mất đi, mà là nhằm khẳng định lý tưởng nhân văn vẫn còn sống mãi trong lòng người thưởng thức. Đặc biệt, là câu chuyện tình hy hữu và cảm động của Duyên, một cô du kích trẻ trung với người sĩ quan quân y trong quân đội cộng hòa, tên là Nam. Mối tình ghềnh thác của họ không chỉ bộc lộ nhân tính thiện lương, nghĩa cử cao đẹp, thủy chung của văn hóa Việt, mà còn có ý nghĩa nhân văn trong mục tiêu hòa hợp hòa giải dân tộc, hàn gắn những vết thương không thể tránh khỏi sau cuộc chiến, khao khát và “cầu mong trái tim yêu thương sẽ khơi nguồn cho tình yêu, hạnh phúc, xóa tan cái ranh giới thù hận... chiến tuyến năm xưa sẽ mờ tan trong ký ức mọi người.”

Kịch nói xuất hiện đầu tiên ở nước ta (lúc ấy gọi là thoại kịch) bởi vở kịch phóng tác Chén thuốc độc (1921) của Vũ Đình Long. Vì vậy, thể loại này rất phù hợp với đề tài hiện đại. Khi trở lại với những lớp sóng thời gian diễn ra trong quá khứ, Ngọc Bình thường sử dụng thể loại ca kịch. Yêu nước, chống lại kẻ thù trong các cuộc chiến tranh xâm lược là đề tài và chủ đề lớn, có ý nghĩa truyền thống trong nghệ thuật nước ta. Lần lại một quá khứ chưa xa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Ngọc Bình có Dòng sông đỏ; một dòng sông mà bờ bên này là quân ta, bờ bên kia là vùng địch đóng, ý tưởng này đã từng đằm sâu trong tâm tưởng của bao thế hệ về những dòng sông chia cắt, trong đó có dòng sông Bến Hải. Bao nhiêu bạo tàn, khốc liệt; bên cạnh sự dũng cảm, thông minh và sự hy sinh vô bờ bến, nhằm nêu bật phẩm chất anh hùng có ý nghĩa cao cả của một tập thể những chiến sĩ và nhân dân (Dân, Nồng, Sen, Lan, bà Vang, ông Vinh...) những người là nền tảng của cuộc chiến tranh nhân dân. Lưỡi gươm chinh phạt lùi lại thời điểm đất nước thuở Vạn Xuân (được phiếm chỉ bằng cái tên Thiên Xuân), Ngọc Bình lại ca ngợi sắc đẹp sạch trong của cô gái mồ côi giàu lòng yêu nước Thúy Ngần, đối lập với sự tàn bạo giết người, cướp của, đốt phá, hãm hiếp của đội quân Lã Chư, cuối cùng đưa đến cái ác dã man như là bản chất của quân xâm lược, đó là cha hãm hiếp con, để rồi con phải giết cha! Cuối cùng là vở Sương phủ hoàng cung, phóng tác theo tiểu thuyết Từ Dụ thái hậu của nhà văn Trần Thùy Mai, là một trong những kịch bản hay của Ngọc Bình.

Phóng tác là quá trình sáng tạo lại tác phẩm, dựa theo một câu chuyện, một đề tài đã có sẵn, có thể làm thay đổi ít nhiều về kết cấu, không gian, tính cách nhân vật, xoay chuyển chủ đề... Ở đây, Ngọc Bình không chỉ dừng lại ở việc phóng tác trong cùng một loại hình văn học, mà còn nhằm tái tạo để đưa lên sàn diễn, nghĩa là chuyển dịch loại hình từ văn học sang sân khấu. Biểu hiện rõ nhất năng lực sáng tạo của tác giả, đồng thời cũng thể hiện tính độc đáo của kịch bản văn học này, là tác giả đã cho xuất hiện nhân vật Ông già thời gian, người nắm giữ mọi nhịp điệu, tiết tấu của câu chuyện, khi bừng thức lúc trầm tư như nhà hiền triết, xoay chuyển chủ đề, làm thay đổi tính cách các nhân vật như Nhị Phi, Phạm Đăng Hưng, Lê Văn Duyệt... đặc biệt là, nhân vật này như một nhà thông thái, trở thành người phát ngôn cho tư tưởng của tác phẩm, hàm chứa một ý tưởng có tính chất cốt tử của tác giả là nói chuyện xưa để biết chuyện nay, bởi lẽ, những cuộc tranh giành quyền lực tuy biểu hiện mỗi thời mỗi khác, nhưng thời nào cũng có thể diễn ra. Ngôn ngữ nghệ thuật chủ yếu của kịch nói là lời nói, của ca kịch là ca ngâm. Người viết kịch bản phải lấy đó làm ngôn ngữ chính văn, không chỉ thể hiện được các sắc thái trữ tình, mà còn phải biết kết hợp giữa kể và tả, mới tạo ra được câu chuyện tự sự làm lay động tâm hồn người thưởng thức. Nếu trong lời thoại của kịch nói, Ngọc Bình thể hiện đậm đặc tư duy kịch tính, phóng túng, năng động, giàu sắc độ mỹ cảm, thì lời ca trong các vở ca kịch, anh phải tuân thủ các làn điệu ca ngâm như ca Huế, ca Nam Bình, ca Nam Ai, ca huê tình, ca kim tiền, ca hành vân, ca lưu thủy, lý năm canh, lý chuồn chuồn, tương tư khúc, hát vè, nói thơ, nói lối... buộc người sáng tác phải am tường và sành điệu những đặc trưng nghệ thuật trong kho tàng nghệ thuật truyền thống dân gian và cung đình, là vốn quý lâu đời của cha ông ở xứ Huế lâu nay.

Kịch bản văn học của Ngọc Bình đích thị là văn học kịch, và tác giả Ngọc Bình đã bước sang lãnh địa của văn chương, khi anh có một cách diễn ngôn trong sáng, giàu hình tượng, nặng đầy tư tưởng nhân văn, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời kể và lời tả trong lời thoại của nhân vật, thể hiện rõ đặc trưng phương thức diễn ngôn của nghệ thuật sân khấu. Bên cạnh đó, còn có sự chọn lựa, phù hợp với ngữ cảnh, tình huống và giọng điệu của từng nhân vật. Hãy nghe Phương Thảo, một cô gái mồ côi, được nuôi dưỡng và lớn lên ở một bản làng dân tộc thiểu số, nói với người mình yêu: “Với em, anh hiền như con nai, anh vui như tiếng chim hót, mát lành như dòng suối trong, ngọt ngào như mật ong rừng. Anh đã lóe lên trong em một tình yêu như những giọt sương long lanh buổi sáng” (Hoa rừng). Không chỉ có lời ca trong các vở ca kịch, mà bàng bạc trong lời thoại của các nhân vật trong các vở kịch nói, có nhiều những đoạn văn hay như thế. Không cần phải đưa lên sàn diễn, mà chỉ dừng lại ở kịch bản văn học, với lối viết mượt mà, ví von giàu sức liên tưởng, phái sinh nhiều hình tượng theo cấp số nhân như thế này, với tôi, là người có hành trình tròn nửa thế kỷ theo đuổi bóng hình của từng con chữ, tôi nghĩ anh có thể xứng đáng được gọi thêm: Ngọc Bình là một nhà văn.

Như đã nói, thành công sáng chói của Ngọc Bình trên sân khấu gần nửa thế kỷ qua với vai trò là đạo diễn và diễn viên. Anh từng là đạo diễn của hơn 40 vở kịch nói, ca kịch và tuồng, trong đó có hàng chục vở đạt Huy chương vàng trong các hội diễn, và cá nhân anh nhiều lần đạt danh hiệu đạo diễn xuất sắc, tiêu biểu như các vở Hàn Mặc Tử (1996), Điều không thể mất (2001), Vú cát (2004)... Bên cạnh đó, người xem không thể nào quên hình tượng các nhân vật mà Ngọc Bình thủ vai như Démidov (Trên mảnh đất người đời, chuyển thể kịch bản Nguyễn Quang Lập, đạo diễn NSƯT Đoàn Anh Thắng), Anh hàng thịt (Hồn Trương Ba, da hàng thịt, kịch bản Lưu Quang Vũ, đạo diễn NSND Xuân Đàm) hoặc vai Bác Hồ (Hồ Chí Minh! Hồi ức màu đỏ, kịch bản Nguyễn Quang Vinh, do chính NSND Ngọc Bình làm đạo diễn),... Đặc điểm nổi bật, tạo nên sức sống lâu bền trong tâm tưởng người xem trong các vai diễn của Ngọc Bình, là ngoài điệu bộ, dáng dấp, cử chỉ, vẻ mặt, anh còn là người giả giọng rất giống như chính giọng nói của các nhân vật có thật ở ngoài đời! Bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ, nay lại có thêm đóng góp không nhỏ của anh về kịch bản văn học. Đã từng dàn dựng, là đạo diễn, là diễn viên có nhiều thành công rực rỡ dưới ánh đèn sân khấu, đạt nhiều giải thưởng xuất sắc trong các kỳ hội diễn, Ngọc Bình am tường và tích hợp được nhiều kinh nghiệm và thủ pháp nghệ thuật, để vận dụng vào quá trình sáng tác kịch bản một cách đích đáng và đem lại thành công đáng ghi nhận.

Có được một Ngọc Bình đa tài như vậy, bởi lẽ, anh sinh trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, từ thời các anh em trong gia đình ông nội đã tham gia Nhã nhạc Cung đình, ông ngoại là thầy tuồng, đến đời cha là Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Ngọc Yến, từng là Trưởng đoàn Ca kịch Huế, mẹ là nghệ sĩ Kim Oanh, hai chị là các nghệ sĩ Kim Vàng, Kim Kiều... Quê ở làng Uất Mậu, xã Quảng Hưng, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế nhưng từ trong bụng mẹ anh đã theo cha mẹ đi lưu diễn nhiều nơi, nên đã sinh ra ở Đồng Hới, Quảng Bình và lớn lên ở Hà Nội, trong khu tập thể Văn công Mai Dịch, Từ Liêm (trong khu đó có cả Trường Trung cấp Nghệ thuật Sân khấu Điện ảnh). Đó là bệ phóng để cho Ngọc Bình nỗ lực rèn luyện, phát huy năng khiếu để trở thành một nghệ sĩ có nhiều thành công trên các lĩnh vực của sân khấu thời gian qua.

Tất nhiên, đối với nghệ thuật, mỗi người có thể tìm ra một đường để đi nhưng không thể tìm ra đích đến. Sự đón nhận tác phẩm mỗi người mỗi khác. Tùy sự cảm nhận của mình, mỗi người đều có thể có sự khen/ chê khác nhau, thậm chí có thể trái ngược nhau. Nhất là đối với nghệ thuật sân khấu, từ kịch bản văn học đến hình tượng sân khấu là một quãng đường xa ngái, xa đôi khi đến mức ngao ngán và dễ nản lòng! Với tôi, là người gần suốt cả cuộc đời đánh vật với từng con chữ, đọc kịch bản văn học của Ngọc Bình không thoát khỏi những đắm say.

P.P.P
(TCSH432/02-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!