MAI ANH TUẤN
Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.
Tác phẩm đã xuất bản của Nguyễn Huy Thiệp - Ảnh: vnexpress
Tại sao Nguyễn Huy Thiệp (xin viết tắt NHT) trở thành cái tên được nhắc đến trước tiên nhất, đảm bảo khả tín lựa chọn nhất, với khả năng gây tranh luận, bàn cãi chưa hề ngừng nghỉ ở các lá phiếu chấp thuận hoặc phản đối, dù tọa độ thời gian đã có hơn ba thập niên điềm tĩnh và cân nhắc tiếp nhận kể từ khi hiện tượng này xuất hiện? Trong tâm thế đối mặt câu hỏi thử thách này, NHT được hình dung là một tác gia văn học sử lí tưởng. Nhưng để bắt đầu giải mã một tác giả văn học sử, công việc cần thiết và quan trọng đầu tiên là phải nắm chắc diễn trình văn chương, một tư liệu cho phép chúng ta nhìn lại chi tiết hơn những thời điểm, tiếng nói, văn phong, thể loại của tác giả. Với những tác giả có vị trí nổi bật như NHT thì cách ông xuất hiện, tạo lập và gây hiệu ứng trên văn đàn không đơn giản là nỗ lực của cá nhân ông mà còn tương thông với bối cảnh đương thời. Bài viết sẽ đưa các cứ liệu và phân tích để chứng minh điều đó.
Niên biểu văn chương NHT
Niên biểu này được tôi dựng trên bốn trục chính: 1. Thời điểm viết theo tác giả xác nhận ở mỗi tác phẩm, có thể chưa đăng in nhưng buộc phải tái hiện trọn vẹn; 2. Các dấu mốc đăng in, xuất bản quan trọng ở trong và ngoài nước; 3. Phê bình, nghiên cứu và làn sóng tiếp nhận của công chúng qua vài xu hướng chính; 4. Một số sự kiện văn chương nghệ thuật và xã hội nổi bật có liên quan, tác động đến trường văn chương NHT. Các lựa chọn đều được dựa trên mức độ quan trọng, khả năng gây ảnh hưởng, dư âm của nó và sẽ được giải thích thêm khi cần thiết. Các chữ viết tắt được dùng: Truyện ngắn (Tr.ng); Kịch (K.); Tiểu thuyết (T.T); Tiểu luận, giới thiệu, phê bình (T.L).
1971: - Tr.ng: Trái tim hổ; Con thú lớn nhất; Nàng Bua. 1979: - Hội nghị đảng viên của Hội Nhà văn bàn về sáng tác, xuất hiện phát biểu của Nguyên Ngọc, về sau được gọi là “Đề dẫn”, H: (11 - 13/6/1979); - Hoàng Ngọc Hiến, Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua (Văn nghệ, s.23). 1981: - Tr.ng: Tiệc xòe vui nhất. 1982: - Tr.ng: Sói trả thù; Đất quên; Tâm hồn mẹ. 1983: - Tr.ng: Huyền thoại phố phường; - Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ III. 1984: - Tr.ng: Nạn dịch; Sạ; Chiếc tù và bị bỏ quên; Cún. 1985: - Tr.ng: Chảy đi sông ơi; Chút thoáng Xuân Hương. 1986: - Tr.ng: Tướng về hưu; Muối của rừng; Nàng Sinh; Cô Mỵ (Văn nghệ, s.18); Vết trượt (Văn nghệ, s.39). 1987: - Tr.ng: Không có vua; Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát: Ngẫu vật thiêng liêng, Sạ, Chiếc tù và bị bỏ quên, Tiệc xòe vui nhất (Văn nghệ, s.3 + 4); Huyền thoại phố phường (Văn nghệ, s.11); Tướng về hưu (Văn nghệ, s.24 + 25 + 26); - Loạt bài đầu tiên thảo luận “Tướng về hưu”, mở đầu cho chuỗi phản ứng liên tiếp của cộng đồng đọc về hiện tượng NHT: Chu Huy, Đôi điều về truyện ngắn “Tướng về hưu”; Nguyễn Hòa, Cảm nhận về một truyện ngắn; Đặng Anh Đào, Khi ông “Tướng về hưu” xuất hiện; Phùng Văn Tửu, Một câu chuyện thôi thúc chúng ta cùng suy nghĩ (Văn nghệ, s.36, s.37); - Nguyên Ngọc có quyết định về làm Tổng Biên tập báo Văn nghệ, tháng 6/1987; - Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh gặp mặt và làm việc với gần 100 văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, ngày 6 - 7 tháng 10; - Bộ Chính trị ra Nghị quyết về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lí văn học nghệ thuật và văn hóa (Nghị quyết 05) ngày 28/11; -Nguyễn Minh Châu, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (Văn nghệ, s.49 + 50). 1988: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ nhất); Những người thợ xẻ; Những bài học nông thôn; Giọt máu; Kiếm sắc (Văn nghệ, phụ trương đặc biệt kỉ niệm 40 năm báo 1948 - 1988); Vàng lửa (Văn nghệ, s.18); Phẩm tiết (Văn nghệ, s.29 + 30); - NHT, Tướng về hưu, Nxb. Trẻ - Tuần báo Văn nghệ. Đây là tập truyện đầu tiên của NHT ấn hành ở Việt Nam; - Hoàng Ngọc Hiến, Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió (viết tháng 10/1987, được dùng làm “Lời giới thiệu” cho tập truyện trên); - Nguyên Ngọc thôi chức Tổng Biên tập báo Văn nghệ vào tháng 12/1988. 1989: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ hai); - T.L: Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn; Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn; - NHT, Những ngọn gió Hua Tát, Nxb. Văn hóa; - Greg Lockhart, Tại sao tôi dịch truyện ngắn NHT ra tiếng Anh (Tạp chí Văn học, s.4); - Nguyễn Thị Bình và Nguyễn Hải Hà, Xung quanh “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” (Tạp chí Văn nghệ quân đội, s.4); - Nhiều tác giả, NHT tác phẩm và dư luận, Huế: Tạp chí Sông Hương và Nxb. Trẻ; - Phim Tướng về hưu, đạo diễn Nguyễn Khắc Lợi, giải Bông sen bạc tại LHP Việt Nam lần IX. Hiệu ứng Tướng về hưu, như vậy, đã lan sang một lĩnh vực khác là điện ảnh. Cần biết rằng, trong lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam, chưa một bộ phim nào chuyển thể một tác phẩm văn học ngay tức thì như trường hợp Tướng về hưu; - Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IV. 1990: - Tr.ng: Mưa; Đời thế mà vui; Nguyễn Thị Lộ; Trương Chi; Tội ác và trừng phạt; - K: Còn lại tình yêu và T.L: Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn (Sông Hương, s.3. Từ đây, tạp chí Sông Hương trở thành không gian quan trọng cho sự xuất hiện đa thể loại của NHT khi mà cao trào đổi mới trên Văn nghệ tại Hà Nội đã lắng xuống); - NHT, Un général à la retraite [Tướng về hưu], Éditions de l’Aube, Pháp. Nhà xuất bản l’Aube, từ đây, sẽ còn tiếp tục xuất bản, tái bản tác phẩm NHT như một công việc thường niên; - NHT, II generale in pensione [Tướng về hưu], Eurostudio, Ý. 1991: - Tr.ng: Sang sông; Thiên văn; Chuyện tình kể trong đêm mưa; - K: Nhà tiên tri; T.L: Nhà văn và bốn trùm “Mafia” (tạp chí Sông Hương, s.3). 1992: - Tr.ng: Thương nhớ đồng quê, Mưa Nhã Nam; - K: Cái chết được che đậy; - T.L: Con đường của nhà thơ; Con đường văn học; - NHT, The general retires and other stories [Tướng về hưu và những truyện khác], Oxford University Press, Hoa Kỳ; - Nguyễn Đăng Mạnh, Truyện ngắn NHT, vài cảm nghĩ (Cửa Việt, s.16, 8/1992. Một sự lên tiếng tiếp theo đến từ miền Trung, đánh dấu thời kì nổi bật của Tạp chí Cửa Việt). 1993: - K: Xuân hồng; - NHT, Con gái thủy thần, Nxb. HVN; NHT, Le Coeur du tigre [Trái tim hổ], Pháp; - T.N.Filimonova, Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Moskva, Nga. 1994: - K: Hoa sen nở ngày 29 tháng 4; - NHT, Xuân Hồng, California: Tân Thư xuất bản, Hoa Kỳ. 1995: - NHT, Như những ngọn gió, Nxb. Văn học; - NHT, Tijgerhart [Trái tim hổ], Hà Lan; - Phim Thương nhớ đồng quê, dựa trên truyện ngắn cùng tên, đạo diễn Đặng Nhật Minh, giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại LHP Việt Nam lần thứ XI; - Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ V. 1996: - Tr.ng: Thương cho cả đời bạc; Chăn trâu cắt cỏ; - NHT, Les Démons Vivent Parmi Nous [Quỷ ở với người], Pháp. 1997: - Tr.ng: Hạc vừa bay vừa thảng thốt; Không khóc ở California; - NHT, La vengeance du loup [Sói trả thù], Pháp. 1998: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ ba); - K: Suối nhỏ êm dịu. 1999: - Tr.ng: Bài học tiếng Việt; - NHT, Conte d’amour un soir de pluie [Truyện trình kể trong đêm mưa], Pháp. 2000: - Tr.ng: Sống dễ lắm, Đưa sáo sang sông; - T.L: Lưới thơ; Cười lên đi; Lòng mẹ; Giá phải chăng; - NHT, Thương cho cả đời bạc, Nxb. VHTT; - Đỗ Đức Hiểu, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Sông Hương, s.136); - Phim Những người thợ xẻ, đạo diễn Vương Đức, giải Bông sen bạc tại LHP Việt Nam lần thứ XII. 2001: - Tr.ng: Thổ cẩm; Những người muôn năm cũ; Chuyện ông Móng; Lòng mẹ; - K: Suối nhỏ êm dịu - T.L: Giăng lưới bắt chim; Khổ câu thơ cứ đến rồi lại đi; Lê Kim Giao: tên nghiện văn chương; Cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy; Sao cứ đùa anh là Thạch Nhọn?; - NHT, Suối nhỏ êm dịu, Văn nghệ xuất bản, Hoa Kỳ; - NHT, Skogens salt [Muối của rừng], Svenska, Thụy Điển; - Nhiều tác giả, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn, Nxb. VHTT. 2002: - Tr.ng: Chú Hoạt tôi; - T.T: Tuổi 20 yêu dấu; - NHT, L’Or et le feu [Vàng và lửa], Pháp. 2003: - T.L: Hiện tượng Vi Thùy Linh; Xin đừng làm chữ của tôi đau; Nguyễn Bảo Sinh, nhà thơ dân gian; Giới thiệu Đồng Đức Bốn; Thời của tiểu thuyết (Ngày Nay, s.19 + 20 + 21 + 22. Ngày Nay, cơ quan ngôn luận của UNESCO ở Việt Nam, một không gian trung lập, thậm chí không dính dáng đến văn nghệ, đã được NHT chọn để phát biểu quan điểm văn chương. “Tiểu thuyết mua vui” trong bài viết này đã là câu cửa miệng nhiều nơi và là căn cứ để người khác phản biện ông); - NHT, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb. Trẻ; - NHT, Tuyển tập kịch, Nxb. Trẻ; - NHT, Crossing the River: short fiction [Sang sông: tuyển truyện ngắn], Curbstone Press, Hoa Kỳ. 2004: - Tr.ng: Cánh buồm nâu thuở ấy; Những tiếng lòng líu la líu lo; Chuyện bà Móng; Quan Âm chỉ lộ; - K: Mổ nhà văn; - T.L: Hoàng Ngọc Hiến: Viên ngọc hiếm; Về chiêu pháp “túy quyền” trong văn học của một nhà văn; Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (Ngày Nay, s.4 + 5 + 6. Đây là một tiểu luận gây phản ứng dữ dội bậc nhất và một lần nữa, những ý kiến phủ nhận đã nhắm vào tác giả và cả người đứng đầu tờ báo); 2005: - T.T: Võ lâm ngoại sử; - T.L: Thương bạn Đồng Đức Bốn; Nhớ bạn Đồng Đức Bốn; - NHT, Giăng lưới bắt chim, Nxb. HNV và Đông A; - NHT, Cánh buồm nâu thuở ấy, Nxb. HVN và Đông A; - NHT, À nos vingt ans [Tuổi 20 yêu dấu], Pháp; - Hội thảo “Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” tại Đại học Sư phạm Hà Nội: Trần Văn Toàn, Nhà văn hiện đại Việt Nam - những giới hạn và sứ mệnh (Suy nghĩ từ những sáng tác của NHT); Châu Minh Hùng, Cuộc tìm kiếm hình thức đa thanh mới của văn xuôi hiện đại qua cấu trúc truyện của NHT; Lê Huy Bắc, “Bậc hiền triết - con chó xồm” hay kỹ thuật nhại của NHT. 2006: - T.L: Tính dục trong văn học hôm nay; Nhân ngày thơ, bàn về thơ; “Khải huyền muộn” - Cảm hứng và những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết; Lại nói về những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết; Giời không có mắt; Không nhạt; - NHT, Tiểu long nữ, Nxb. CAND; - Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội về thể loại phê bình dành cho Giăng lưới bắt chim. 2007: - Tr.ng: Cà phê Hàng Hành; - T.L: Trở lại tự nhiên; - NHT, Gạ tình lấy điểm, Nxb. HNV;- NHT, Truyện ngắn NHT (Với minh họa của các họa sĩ), Nxb. Văn hóa Sài Gòn; - NHT được nhận Huân chương Văn học nghệ thuật của chính phủ Pháp. 2008: - Tr.ng: Như sương khói bay; - K: Nhà Ô-sin; Đến bờ bên kia; - T.L: Diễn từ trong dịp nhận giải thưởng Nonino; - NHT, Soffi di vento sul Vietnam, [Những ngọn gió từ Việt Nam], ObarraO, Ý; - NHT, Mon oncle Hoat [Chú Hoạt tôi], Pháp; - NHT được nhận giải thưởng Nonino Risit d’Âur của Ý; - Đến bờ bên kia được trình diễn trong Liên hoan sân khấu thể nghiệm toàn quốc lần I. 2009: - T.L: Đất và người Nam bộ Việt Nam; - NHT, Der pensionierte General [Tướng về hưu], Mitteldeutscher Verlag, Đức. 2010: -NHT, Nhà Ô-sin, tập kịch, Nxb. Thanh Niên; - NHT, Mademoiselle Sinh [Nàng Sinh], Pháp. 2011: - Phim Tâm hồn mẹ, phỏng theo truyện cùng tên của NHT, đạo diễn Phạm Nhuệ Giang. 2012: - NHT, Vong bướm, Nxb. Thời đại và Nhã Nam; - NHT, Tuyển tập kịch, Nxb. Trẻ; - NHT, Crimes, amour et châtiment [Tội ác, tình yêu và trừng phạt], Pháp; - Nguyễn Văn Đông, Lời văn nghệ thuật NHT, Luận án tiến sĩ; - Nhà hát Tuổi Trẻ công diễn vở kịch Nhà Ô-sin, đạo diễn Lê Khanh. 2013: - Nguyễn Văn Thuấn, Liên văn bản trong sáng tác NHT, Luận án tiến sĩ. 2014: - T.L: Nhà văn và bốn “ông trùm” (Nghệ thuật mới, bộ mới, s.9); - La Khắc Hòa, NHT và bước ngoặt của văn học Việt Nam. 2015: - T.L: Tôi viết truyện “Tướng về hưu” (Tuổi Trẻ cuối tuần, tháng 6/2015); - NHT, Regn i Nhã Nam [Mưa Nhã Nam], Bokfưrlaget Tranan, Thụy Điển.
Một vài nhận xét
Khác với ví von có phần đơn giản rằng “NHT là bông hoa nở muộn trên văn đàn”, chúng ta thấy cuộc viết của NHT nảy sinh khá sớm, từ thập niên 1970, lúc ông ngoài hai mươi tuổi, và âm thầm xuất hiện vào năm 1986 trước khi thực sự bùng nổ vào năm 1987. Một quá trình viết như thế chắc chắn được điều chỉnh bởi sự quan sát, nghiên cứu kĩ lưỡng bạn đọc để “dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại mình” sao cho “hợp thời” (Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn). Theo thống kê của tôi, đến thời điểm này (6/2015), NHT có 110 tác phẩm, trong đó có 53 truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, 13 vở kịch, còn lại là những tiểu luận, tạp văn, phê bình. Việc ông tuyên bố ngừng viết, “rửa tay gác kiếm”, “cuộc chơi kết thúc”1 phần nào phản ánh sự lắng lại của cao trào đổi mới văn học khi mà những điều kiện duy trì, tiếp sức cho nó không còn dồi dào, thuận lợi như trước.
Tác phẩm NHT, một cách liên tục, được “xoay vòng” xuất bản bởi hầu hết các nhà xuất bản lớn của Việt Nam. Đáng chú ý hơn, không lâu sau khi ông vừa nổi tiếng trong nước, biên giới tác phẩm NHT nhanh chóng được mở rộng ra nhiều cộng đồng ngôn ngữ khác nhau: từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý đến tiếng Hà Lan, Thụy Điển, Đức, Nhật… Như vậy, không đợi đến ân sủng ngoại giao, NHT trở thành nhà văn Việt Nam đương đại có tính quốc tế đáng kể nhất và nhờ vị thế này, văn chương NHT được sử dụng như một tư liệu tìm hiểu Việt Nam của giới nghiên cứu Việt học trên thế giới. Trong phạm vi tiếp cận các nghiên cứu viết bằng tiếng Anh, tôi coi những tiểu luận dưới đây là nổi bật và có giá trị gợi mở hơn cả: Nguyen Huy Thiep and the Faces of Vietamese Literature [NHT và diện mạo văn học Việt Nam] của Greg Lokhart, vốn là một dẫn nhập cho Tướng về hưu và những truyện khác do ông dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 1992. Cũng vào năm 1992, tiến sĩ Peter Zinoman, với những am hiểu văn chương, xã hội Việt Nam sâu sắc của ông, đã cho đăng hai tiểu luận có tính chất mở rộng và đụng chạm nhiều vấn đề quan trọng: Nguyen Huy Thiep’s “Vang lua” and the Nature of Intellectual Dissent in Contemporary Vietnam [“Vàng lửa” của NHT và bản chất sự bất đồng tri thức trong xã hội Việt Nam đương đại] và Declassifying Nguyễn Huy Thiệp [Giải mật NHT]. Học giả Keith W. Taylor, từ 1991, sau nhiều lần hiệu chỉnh và bổ túc thì năm 1998 cũng đã công bố Locating and translating boundaries in Nguyen Huy Thiep’s short stories” [Định vị và chuyển dịch ranh giới trong truyện ngắn NHT], một tiểu luận thú vị và hấp dẫn, trên Vietnam Review. Cần sòng phẳng để nói rằng, không nhiều nhà văn đương đại của chúng ta được là một từ khóa nghiên cứu thường xuyên tái lặp như vậy.
Những tranh luận, phê bình về văn chương NHT đã phá vỡ các biên giới địa lí tiếp nhận và các không gian im lặng của tri thức. Trước hết, cần thấy sự dịch chuyển và lan rộng ngày một khác đi của không gian tranh luận Nguyễn Huy Thiệp, từ Văn nghệ tại Hà Nội, quá trình “nam tiến” tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp chạm đến những tiếng nói từ các tỉnh như Cửa Việt, Sông Hương, Đất Quảng, thậm chí Cánh Én, mà thực chất, là nới rộng những quan điểm có thể gây hiệu ứng hơn tại thời điểm đó. Và gần như đồng thời, loạt bài viết của Trần Đạo, Văn Ngọc, Thụy Khuê (Pháp), Nguyễn Vy Khanh (Canada), Trương Hồng Quang (Đức), Đào Trung Đạo (Mỹ), Nguyễn Đình Đăng (Nhật Bản)..., có ý nghĩa điển hình cho sự quan sát tinh tế, thẳng thắn của giới văn chương Việt hải ngoại đối với sự thay đổi có tính chất bước ngoặt của văn học trong nước mà cho đến đầu thập niên 1990 mới được tìm thấy qua loạt tác phẩm NHT xuất ngoại. Khi phê bình báo chí với không ít va chạm quan điểm đôi khi nảy lửa lắng lại, tiếp nhận NHT xuất hiện trong các nghiên cứu chuyên sâu, các luận văn, luận án và tại đây, trong lúc chỉ ra những đặc sắc bút pháp và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, việc ứng dụng lí thuyết phê bình văn học trở nên đa hướng, từ thi pháp học, tự sự học, liên văn bản đến sinh thái học, hậu hiện đại… Đóng vai trò phép thử, tác phẩm NHT đã kích hoạt các phiêu lưu tìm biết, ứng dụng lí thuyết phê bình phương Tây và nhắc nhở về sự mất bóng dần của phê bình Mác-xít từng độc tôn lâu dài trước Đổi mới. Độc giả, giới phê bình Việt Nam và quốc tế, bằng việc đọc NHT, đã cùng gặp gỡ trên rất nhiều điểm vừa tương đồng vừa khác biệt. Chứng kiến một tác giả văn chương luôn hiện diện trong hàng loạt từ khóa nghiên cứu văn học, văn hóa Việt Nam đương đại như vậy, tất yếu, sẽ thôi thúc, nảy sinh nhiều cách diễn giải hơn nữa. Không kết thúc tạo ra sự lớn lao của nhà văn, với Nguyễn Huy Thiệp, nghĩa là như vậy.
M.A.T
(SH321/11-15)
.....................................
1. Năm 2012, sau khi in vở kịch Vong bướm, trên nhiều phương tiện truyền thông, Nguyễn Huy Thiệp đã tuyên bố “ngừng viết”. Đến thời điểm này, Nguyễn Huy Thiệp đã hoàn thiện bản thảo một cuốn tiểu thuyết võ hiệp nhưng chưa có điều kiện công bố. Cá nhân tôi đã được đọc bản thảo này và nhận thấy rất nhiều điểm lí thú, độc đáo trong đó.
PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)
Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.
ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.
(Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)
INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)
KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.
(Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)
LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.
NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.
TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.
ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.
CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.
Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”
LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H
LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)