Bùng nổ dân số, một trong những nguyên nhân dẫn đến tụt hậu

14:30 08/06/2023


VIỆT HÙNG

Hội thi chuyên trách dân số giỏi tỉnh T.T. Huế 1997 - Ảnh: Đức Hùng

Nguy cơ tụt hậu - một trong bốn nguy cơ đang thường xuyên đe dọa Việt Nam. Bức tranh toàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay đang còn khá ảm đạm. Một trong những nguyên nhân gây nên sự ảm đạm ấy là, dân số chúng ta quá đông, hoàn toàn không tương xứng với sự phát triển của một nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, có đến trên 80% số người sống bằng nghề nông nghiệp, với kỹ thuật canh tác cực kỳ thô sơ, điều mà người ta đã sử dụng từ cách đây hàng thế kỷ.

Các nhà kinh tế học dựa vào mức bình quân thu nhập quốc dân tính trên đầu người trong một năm để chia thế giới thành 5 nhóm nước khác nhau, gồm: cực giàu; giàu; trung bình; nghèo; rất nghèo. Nếu mức thu nhập này dưới 1.000 USD là những nước nghèo, và dưới 500 USD là những nước rất nghèo.

Việt Nam hiện nay tuy mức tăng trưởng kinh tế tương đối khá, (khoảng 8% mỗi năm) song do xuất phát điểm thấp, cùng với sự gia tăng dân số cao, nên chúng ta vẫn đang ở mức thu nhập 220 - 230 USD tính trên đầu người trong một năm. Với mức này, chúng ta chịu kém các nước phát triển từ 75 - 100 lần, thậm chí trên 100 lần (ví dụ Nhật Bản, Thụy Sỹ đạt 25.000 USD trên đầu người). Như thế, Việt Nam đang đứng ở nhóm nước thứ 5, thậm chí còn đứng sau một số nước trong nhóm này. Trong khi đó có những tỉnh của Việt Nam chỉ đạt dưới 150 USD. Hiện nay, riêng thành phố Hồ Chí Minh đạt khoảng 500 USD, và phấn đấu đạt 1.000 USD vào năm 2000. Như thế, hy vọng đến năm 2000, thành phố Hồ Chí Minh sẽ là thành phố đầu tiên của Việt Nam thoát khỏi “sự nghèo”.

Những con số như trên để chúng ta thấy rằng, hiện nay Việt Nam đang bị... tụt hậu.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực. Với phương châm phát huy lợi thế của nước đi sau là “đi tắt, đón đầu”, song nếu chúng ta không giảm được mức sinh đẻ một cách hợp lý, tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế, thì mục tiêu dân giàu nước mạnh là còn rất xa.

Dân số và phát triển có mối quan hệ biện chứng, chúng luôn tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Sự phát triển của mỗi nước phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố dân số của nước đó. Tỷ lệ phát triển dân số phải tương ứng với trình độ phát triển của sản xuất, thì mới có đủ tư liệu sản xuất để kết hợp với người lao động thành lực lượng sản xuất. Sẽ rất nguy hiểm khi dân số và nguồn lao động tăng quá nhanh, vượt quá khả năng thu hút của nền kinh tế, tạo nên sức ép và gánh nặng lớn cho xã hội. Lúc ấy, không những nó không trở thành động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, mà ngược lại trở thành lực cản quá trình này.

Nói đến phát triển là nói về việc nâng cao hạnh phúc của nhân dân; nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khỏe và sự bình đẳng của các thành phần kinh tế. Mục tiêu của phát triển phải bao gồm cả những mục tiêu xã hội, đó là xóa đói giảm nghèo, thỏa mãn nhu cầu cơ bản của dân cư, công bằng xã hội, đoàn kết trong cộng đồng và nâng cao phẩm giá con người.

Một xã hội được gọi là phát triển phải là sự đi lên, sự tiến bộ của toàn xã hội một cách toàn diện, đó là tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập quốc dân tính trên đầu người tăng liên tục, mức sống của đại đa số dân cư được cải thiện, các giá trị tinh thần và văn hóa được đề cao. Như vậy, phát triển phải có tính cân đối, hài hòa giữa kinh tế và xã hội.

Theo các nhà dân số học thì, đối với một quốc gia, để tránh sự thụt lùi, mức tăng trưởng kinh tế tối thiểu phải gấp 4 lần mức gia tăng dân số. Vì thế, chưa thể nói đến sự phát triển, khi mức tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số vừa đủ độ “cân đối” như công thức nêu trên.

Mấy thập niên gần đây, sự bùng nổ dân số trên thế giới đã trở thành một hiểm họa không chỉ đe dọa đời sống con người, mà cả sự sống của hành tinh này cũng ngày càng trở nên chật hẹp vì cư dân tăng quá nhanh. Đông dân không còn là niềm tự hào mà trở thành mối lo ngại của mọi quốc gia. Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Malthus, một nhà kinh tế học người Anh đã công bố tác phẩm “Về các nguyên lý dân số và ảnh hưởng của nó đối với sự hoàn thiện xã hội trong tương lai”. Quan điểm của ông thể hiện sự bi quan với viễn cảnh của sự phát triển dân số. Theo ông, lương thực là sự cần thiết cho việc tồn tại của con người và tình yêu nam - nữ là mãi mãi cần thiết cho xã hội loài người. Ông khẳng định, dân số tăng theo cấp số nhân, lương thực và vật dụng cần thiết cho tồn tại của loài người chỉ tăng theo cấp số cộng. Từ đó tất dẫn đến sự mất cân đối giữa dân số với lương thực, và đó là quy luật tự nhiên, vĩnh viễn. Học thuyết của ông lâu nay bị coi là phản động, bởi ông không đưa ra được hướng giải quyết tích cực cho việc hạn chế sinh đẻ mà cho rằng, để giảm sự gia tăng dân số, con người buộc phải chấp nhận nạn đói, chiến tranh, dịch bệnh, hoặc hạn chế quan hệ giới tính. Mặc dù còn những khiếm khuyết trong học thuyết của mình, song Malthus vẫn được ghi nhận công lao, là người đầu tiên đặt ra vấn đề dân số một cách gay gắt và tiên đoán trước những hiểm họa của sự bùng nổ dân số.

Giữa thế kỷ XX, đứng trước hiện tượng bùng nổ dân số, ngay một số nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Italia... đã bắt đầu cảm thấy lo ngại bởi nó có liên quan mật thiết đến chiến lược phát triển của từng quốc gia cũng như cả nhân loại. Nếu như đầu công nguyên, thế giới chỉ có 330 triệu người, thì phải đến năm 1830 mới đạt con số 1 tỷ; năm 1930 đã là 2 tỷ và năm 1987 đã là 5 tỷ. Để có tỷ người thứ nhất, loài người phải trải qua hàng triệu năm, nhưng tỷ người thứ hai chỉ mất 100 năm và tỷ người thứ 5 chỉ mất 12 năm(1).

Việt Nam là một trong những nước sớm nhận thức được nguy cơ bùng nổ dân số và những hậu quả nặng nề đối với sự phát triển kinh tế xã hội, nên ngay từ năm 1961, Hội đồng chính phủ đã có quyết định về việc sinh đẻ có hướng dẫn. Tuy vậy, sau hơn 30 năm thực hiện, tỷ lệ phát triển dân số hàng năm vẫn là 2,2 - 2,3%, cách rất xa mục tiêu phấn đấu 1,7%. Sở dĩ công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ) của ta chưa đạt được hiệu quả như mong muốn là do: các cấp chính quyền cơ sở chưa thực sự coi đây là một quốc sách lớn; đầu tư của nhà nước cho công tác này chưa thỏa đáng; bộ máy chuyên trách công tác này còn yếu kém, mang tính hình thức; số liệu thống kê không chính xác, do vậy thiếu căn cứ khoa học để xây dựng mục tiêu, kế hoạch; các giải pháp tiến hành không đồng bộ...

Việt Nam không chỉ là nước đông dân, mà còn là nước có tỷ lệ gia tăng dân số cao trên thế giới. Năm 1900 ta mới chỉ có 12,5 triệu người, năm 1975 là 47, 63 triệu và đến 1994 đã là 72,931 triệu, xếp thứ 13 trong hàng các nước đông dân nhất thế giới. Mười năm gần đây, dân số Việt Nam tăng khoảng 14 triệu; 15 năm sau giải phóng tăng 18,6 triệu, trong khoảng thời gian này cả Châu Âu chỉ tăng 20 triệu. Nếu với tốc độ tăng như hiện nay, chỉ 30 năm nữa, dân số nước ta sẽ tăng gấp đôi, tức là khoảng 150 triệu. Trong khi diện tích đất đai Việt Nam là 331.689 km2, mật độ 220 người/km2, so với mật độ dân số thế giới là 42 người/km2 thì ta gấp hơn 5 lần và vượt xa các nước trong khu vực. Nếu nhìn ra một số nước trong châu Á, ví dụ Hàn Quốc bắt đầu công tác DS-KHHGĐ năm 1962, sau Việt Nam một năm, dân số của họ lúc bấy giờ là 25 triệu (ít hơn Việt Nam 5 triệu), đến nay họ chỉ có 45 triệu, còn Việt Nam khoảng 75 triệu(2).Việt Nam lại là một trong những nước nghèo đất canh tác nhất thế giới, với địa hình hết 3/4 là núi đồi. Năm 1995, diện tích đất canh tác của Việt Nam bình quân 0,086 ha/người, thấp hơn Trung Quốc 3 lần và thấp hơn Tây Âu 20 lần. Vì vậy, với quy mô và tỷ lệ gia tăng dân số như hiện nay là quá tải so với điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội.

Nghèo khổ là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó sự gia tăng dân số quá nhanh là một nguyên nhân quan trọng. Từ đó mà, giải quyết việc làm, một vấn đề rất bức xúc, thực sự là gánh nặng đối với nền kinh tế có mức tăng trưởng chưa cao như nước ta hiện nay. Nạn thất nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội rất nan giải. “Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nòi” và “Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”(3).

Hiện nay trẻ em Việt Nam dưới 15 tuổi chiếm 42,5% dân số, trong khi các nước phát triển là 20%. Với nền kinh tế còn nhiều khó khăn như nước ta, việc đầu tư nuôi dạy hơn 40% dân số cho tương lai quả là điều không đơn giản.

Hàng năm có 2 triệu trẻ em nước ta bước vào độ tuổi đi học, số lượng trường lớp hiện nay chỉ thu nhận được 35% số trẻ em vào các lớp mẫu giáo. Muốn phổ cập bậc học phổ thông cơ sở, mỗi năm nhà nước cần xây thêm 36.000 phòng học, đây là một sức ép lớn đối với nền kinh tế nước ta. Cho nên, việc dân số tăng nhanh sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng của nền giáo dục.

Nhu cầu học tập trong xã hội ngày càng lớn, nhưng mức sống người dân còn thấp và nhiều vấn đề xã hội khác chưa được đảm bảo, trong khi sự gia tăng dân số quá nhanh, đã ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao dân trí. Hiện nay mặt bằng dân trí Việt Nam rất thấp, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Mặc dù chúng ta đã cố gắng để đạt được 88% dân số biết chữ, nhưng hiện nay lại đang diễn ra quá trình tái mù chữ, nhất là ở các tỉnh miền núi (có xã số người mù chữ hơn 70%) (4).

Từ chỗ mức sống thấp, đời sống khó khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu do sự mất cân đối giữa dân số và sản xuất đã ảnh hưởng tới chất lượng nòi giống, chất lượng con người mà biểu hiện rõ nhất là sức khỏe dân cư. Người lao động Việt Nam rất hạn chế về thể lực. Sự phát triển về phương diện sinh lý và thể lực dường như chững lại, “sau hơn 40 năm, thanh niên nước ta không cao thêm 1cm nào và không cân nặng thêm 1kg nào”(5).

Ngày nay, chương trình DS - KHHGĐ đã trở thành một chương trình được sự quan tâm của toàn dân, nhất là các nước đang phát triển, đông dân như Việt Nam. Đó là vấn đề hết sức phức tạp, liên quan đến tâm tư, tình cảm của con người, phong tục tập quán của mỗi địa phương. Nó vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế, vấn đề chính sách, cũng là vấn đề kỹ thuật, quản lý, liên quan đến rất nhiều lãnh vực khoa học khác nhau. Cho nên khi giải quyết vấn đề này, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các địa phương, mới có thể huy động được trí tuệ và sự nỗ lực của toàn dân.

Không thể nghĩ đơn giản công tác DS - KHHGĐ đơn thuần là các nghiệp vụ kỹ thuật, gọi ngắn gọn là công tác “đặt vòng”. Công tác này, trước hết phải là công tác tư tưởng - văn hóa và thực sự là một cuộc cách mạng về nhận thức, để chuyển những suy nghĩ lạc hậu như “trời sinh voi, trời sinh cỏ” sang chấp nhận một giá trị mới, một chuẩn mực mới của đời sống xã hội là, sinh đẻ ít con nhưng được chăm sóc chu đáo về sức khỏe, học vấn, đạo đức... Công tác này còn chứa đựng trong nó những nội dung phong phú đầy tính nhân văn, ẩn chứa trong đó những cuộc đời và thân phận con người cụ thể, với tất cả vui, buồn, sướng, khổ...

Cuộc vận động DS - KHHGĐ không thể chỉ thực hiện trong các cuộc hội nghị, hội thảo, mà còn phải tác động cả trực tiếp lẫn gián tiếp, cả nhận thức lẫn tình cảm với những người trong độ tuổi sinh đẻ và trong tất cả mối quan hệ của họ.

Nếu đạt được chỉ tiêu phát triển dân số là 1,7% mỗi năm thì trong 30 năm nữa, dân số Việt Nam chỉ khoảng 125 triệu chứ không phải 150 triệu như dự báo theo tốc độ phát triển hiện nay(6). Giảm sinh được chừng ấy triệu con người sẽ bớt được rất nhiều cho gánh nặng của nền kinh tế; bớt đi rất nhiều cho sự đầu tư giáo dục, chăm sóc sức khỏe, kiến tạo công ăn việc làm; giảm được đội ngũ thất nghiệp, có điều kiện hơn cho việc tập trung đào tạo một đội ngũ lao động lành nghề. Có như vậy mới hy vọng đưa Việt Nam thoát ra khỏi sự tụt hậu về mọi mặt.

V.H
(TCSH106/12-1997)

-------------------
(1), (2), (6) - Theo số liệu của Ủy ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình.
(3) - Nghị quyết BCHTW Đảng lần thứ 4, khóa VII.
(4) - Niên giám thống kê 1992.
(5) - Tạp chí triết học số 3 - 1993, trang 26.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nếp nhà lãng đãng khói hương như chiếc cầu nối với quá khứ. Hồn người tĩnh tại, thong dong hòa quyện miền tâm linh thăm thẳm. Nhưng không phải dịp Tết đến ta mới thấy nhẹ nhàng. Bất cứ khi nào đứng trước ban thờ tiên tổ, bao bộn bề, lo toan đều tự nhiên rũ bỏ, để gia tâm bảo vệ những gì tốt đẹp của tinh thần.

  • Vừa qua, một số cá thể thiên nga đã được thả vào hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc làm này đã gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Dù sau đó, các cá thể thiên nga đã được di chuyển đến một địa điểm khác song từ sự việc này nhiều người tỏ ra băn khoăn bởi hồ Hoàn Kiếm vốn được coi là nơi linh thiêng, hơn nữa hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn còn là Di tích quốc gia đặc biệt.

  • Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.

  • “Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.

  • Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.

  • Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.

  • Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.

  • Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.

  • Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.

  • Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.

  • Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.

  • Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…

  • Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.

  • Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.

  • Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.

  • Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.

  • “Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.

  • Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.

  • Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?

  • Chú trọng phát triển văn hóa đọc tại vùng nông thôn, miền núi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, văn hoá đọc ở trẻ em nói riêng sẽ không thể phát triển rộng lớn nếu hệ thống phát hành sách chỉ tập trung ở thành phố và trẻ em nông thôn, miền núi vẫn còn “đói sách”.