JENNIFER WALKUP
Tôi sẽ không nói với ai về việc chẩn đoán.
Không hé răng với mẹ hay em gái tôi. Chắc chắn không phải Jake và có lẽ với Steve cũng không hề.
Ảnh: internet
Tôi sẽ mang mặt nạ như nhiều năm, ngay cả khi bên trong cơ thể tôi đang mục nát thối rữa như một quả cam đã nhũn ruột, hư sâu dẫu bên ngoài còn lớp vỏ da che lấp. Đối với thế giới, sẽ không có vết bầm dập, không mảng lốm đốm chảy nhão.
Không chút trầm cảm hay bạc nhược yếu lòng.
Tôi rửa chén dĩa, xả nước nóng xào xào trong khi chờ máy sấy kêu vo vo. Mưa nhỏ giọt trên khung cửa sổ, những giọt to xô đẩy giành nhau rơi trước.
Chiếc khăn lau họa tiết cổ điển của tôi đã cũ mòn, nó mỏng lắm rồi gần như không còn tác dụng thấm hút nữa. Tôi vùi tay vào khăn, nhét nếp vải vào giữa các ngón tay cho đến khi chúng khô hoàn toàn. Tôi chà xát ngón tay cho đến khi cảm thấy thô rát.
Mọi người sắp đến. Bàn đã bày biện xong.
Khuấy nước sốt. Khuấy, khuấy. Công thức bữa tối thứ Bảy của tôi. Mỗi tuần. Khuấy, khuấy.
Tôi thậm chí còn không biết phòng khám của bác sĩ Morris có những cuộc gọi kiểu này vào các ngày thứ Bảy cơ đấy. Tôi nghĩ họ làm việc từ thứ Hai đến thứ Sáu… Vậy mà chính bà bác sĩ gọi…?
Quái.
Bẻ một quả từ nải chuối chín vàng trên bệ bếp, tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu cao, loại chúng tôi đặt trong gian bếp để tạo sự duyên dáng. Một cách đều đặn máy móc như kim đồng hồ, tôi kéo cuốn sổ nhỏ mà nhiều năm nay tôi đã ghi lại từng miếng ăn đưa vào miệng. Chất béo, calo, đạm, thức ăn giàu carbonhydrat. Từng miếng ăn đều được đánh dấu, ghi tên… tích tích tích, tích tắc. Bổ sung, loại trừ, thêm bớt, xem chừng size quần jean lên-xuống, lên- xuống. Một quả chuối cỡ vừa. Cây bút của tôi đang lướt trên mặt giấy bỗng dừng lại, lượn lờ lơ lửng hệt chiếc trực thăng trên đại dương đang tìm kiếm những người sống sót.
Một âm thanh bật phát ra từ trong tôi như một tiếng cười bùng ra rồi tắc nghẹn. Tôi trượt khỏi ghế, chân đụng vào thùng thép không gỉ. Cuốn sổ rơi xuống nền.
Tôi lặng lẽ ăn chuối.
Trong khi đang ngồi đó, tôi gọi cho thẩm mỹ viện.
“Tôi có thể sắp xếp một cuộc hẹn? Cắt, tô, làm nổi. Móng tay chân. Mặt nữa. Aileen Thompson đây.”
“Ơ. Ừm, được.” Karen, nhân viên lễ tân làm việc tại Bonnie’s nhiều năm nay, rất bối rối. Tôi đoán cô nàng nhận ra việc tôi đang tiết kiệm một xu.
Tẩy sơ lớp da chết là ngon rồi. Ngày mưa của tôi đã đến.
Khi chúng tôi cúp máy, tôi chậm bước lên lầu - rón rén như một tên trộm. Tôi chuẩn bị một bồn nước đầy bọt, nồng mùi tử đinh hương, ngâm mình cho đến khi ngón tay ngón chân tái nhợt nhăn nheo hơn lúc bình thường. Chỉ khi nước trở nên lạnh giá tôi mới ra khỏi bồn.
Tôi khoác chiếc áo choàng vải bông màu nắng với những nếp gấp sang trọng mà Jake tặng cho tôi vài năm trước vào dịp Mother’s Day rồi chậm rãi chải tóc mình, một lần, hai lần… cả trăm lần, có lẽ vậy. Tôi làm khô tóc từ từ, sử dụng bàn chải tròn và đặt máy sấy tóc ở chế độ thấp, sau đó rẽ tóc thành từng múi, chải mượt và thả lọn. Tiếp theo tôi dùng nhíp sửa hàng lông mày.
Không suy nghĩ. Chỉ cần nhổ. Nhổ, nhổ, một sợi nữa biến mất. Nhổ, nhổ. Tất cả gọn gàng đâu ra đó.
Kem dưỡng ẩm. Lớp phấn lót. Son. Kẻ, đánh bóng, tô, vẽ, trang điểm mắt, làm cong mi. Chuốt mi, bôi mi. Thêm mascara. Nháy, nháy. Đừng nghĩ. Nháy.
Thở. Thở thực sự, nhịp thở rất thật, bây giờ. Hơi thở sâu. Không khí vào buồng phổi rồi lại ra ngoài.
Sống. Còn sống. Đang tồn tại. Đừng nghĩ bất kỳ điều gì khác. Mình đang sống hôm nay.
Và mọi người sẽ sớm có mặt ở đây. Bạn sống cho những bữa tối thứ Bảy như thế này.
Bạn sống.
Quần thụng xám và áo len dài tay màu tươi, đỏ, đỏ, đỏ! Máu đỏ. Hoa hồng đỏ. Sống sót. Cuộc sống.
Khi tôi đi như trượt xuống cầu thang trong đôi tất len, cái máy sấy cuối cùng cũng kêu ro ro. Tôi vội bước. Tôi ghét nếp nhăn. Đồ đã giặt xong, trắng bong, như muốn mời gọi ấp ôm - như chính tôi thèm khát trao cho tất cả những người thân quen vòng tay tràn đầy ấm áp và mềm như nhung. Nồng ấm như giọng bác sĩ Morris khi cố tìm lời an ủi thay cho những từ ngữ lạnh lùng tang tóc.
Từ ngữ lạnh giá, rùng mình, đông cứng. Từ ngữ chết.
Việc vặt mà tôi thường chán ghét giờ thấy không còn tệ nữa, mùi quần áo sạch sẽ thơm tho quen thuộc như hòa cùng ánh nắng tinh khiết ướp hương khuôn mặt tôi. Tôi lướt tay trên chiếc áo trong vải bông trong khi xếp đồ. Dưới đầu ngón tay tôi, những chồng mềm mại phồng lên làm thành một loại nhạc cụ, lướt-kêu, lướt-kêu, vuốt nhẹ mượt mà. Gấp, xếp, gấp, xếp chồng.
Đâu ra đó. Mọi thứ ở đúng vị trí của nó.
Những chiếc áo sơ mi của Steve gọn gàng trong ngăn kéo của anh. Anh thực sự cần cho những người có nhu cầu một số đồ mà anh ít dùng đến, hoặc thêm vào đống giẻ lau kính các loại xe của thằng Jake. Tiếng đồng hồ lười nhác điểm tích tắc khi tôi đi qua các căn phòng. Nhàm chán và yên tĩnh như những mẩu bánh vụn trên chiếc bàn ngoài hiên, không ngừng lay động trong gió.
Hàng tồn kho. Phế liệu. Thức ăn thừa.
Jake đến trước. Lúc gần hai giờ tôi nghe thấy tiếng động cơ xe của thằng con ầm ầm trước khi làm rung chuyển căn nhà, tôi còn cảm nhận rõ hơn từ đôi bàn chân mình. Nó đun xe thẳng vào ga ra và tôi mỉm cười vì nó là con trai của tôi và còn gì tuyệt hơn khi gặp cục cưng của mình? Khối u trong cổ họng của tôi.
Khối u.
“Cha con sẽ không thích con chiếm chỗ của ông ấy đâu.” Tôi gọi to khi Jake đập cửa.
Tiếng cười của Jake lấp đầy căn phòng - thô nhưng man, không giống chút nào tiếng the thé nhức óc vẫn còn vang vọng trong tâm trí tôi từ dạo nào ở sân chơi. Nó kéo tôi vào vòng tay thật nhẹ nhàng, ôm ấp nâng niu như thể tôi là cánh hoa, là giấy lụa, là người đẹp của nó. Tôi ôm lấy mặt nó, hôn nhẹ lên má.
Nhún vai, đôi mắt nó ánh lên vẻ tinh nghịch. “Lẽ ra cha về nhà trước mới phải chứ.”
Nhà. Tôi rất thích vì Jake vẫn nghĩ thế dù nó đã đi xa mấy năm rồi.
Tôi hứ và tiếp tục khuấy, khuấy mãi cái nồi nước sốt không cần khuấy nữa.
Phải làm một chuyện gì đó.
“Học hành sao rồi?” Tôi hỏi, tiến đến bàn để xếp lại khăn ăn. Những câu hỏi vô thưởng vô phạt. Những hành động giản đơn nhàm chán vô bổ.
Jake lục lọi tủ lạnh. Nó lôi ra một xoong thịt hầm đêm qua.
“Trường học là trường học. Tuy nhiên cái luận án đang làm con ê mông.” Nó để xoong vào lò vi sóng và quay lại tủ lạnh.
“Cuộc sống… tiến triển sao rồi?” Không gấp nữa, tôi chỉ đứng đấy và nhìn nó chằm chằm. Tôi nhớ rõ từng đường nét trên lưng con trai tôi. Áo phông và quần jean của nó, mái tóc không đều trên cái cổ rám nắng.
Nó uống hộp nước cam. Tôi thậm chí không nhăn mặt cũng chẳng quan tâm. Tốt. Đẹp.
“Sẽ ổn thôi,” Jake quay sang tôi, đáp. “Ông thầy hướng dẫn con cho rằng đến giờ vẫn ngon ơ, nhưng con còn cả núi việc phải làm.”
“Mẹ chắc rằng điều đó thật tuyệt vời.”
Nó đảo mắt. Tôi rành ánh nhìn đó: mẹ biết gì về cuộc sống và đam mê của con chứ, và như thế nào mới là cuộc sống thực sự. Lò vi sóng kêu khi nó lấy một cái nĩa.
“Con đã nói chuyện với Tess chưa?”
Jake lại khựng tại lò vi sóng vẻ lạnh lùng, quay lưng về phía tôi. “Dạ. Đêm qua.”
“Rồi…?”
Nó lấy thức ăn và thả mình xuống ghế. Khi nó nhìn lên thì không còn kiểu mẹ biết gì… nữa mà thay bằng ánh mắt tôi biết rõ - ngây thơ thủa nào. Đó, hôn nó và mặt nó tươi ngay. Nó nhún vai rồi ngấu nghiến món cơm, gà. Nước xốt kem.
“Cô ấy không biết mình muốn gì.” Nó liếm nước xốt dính trên ngón út. “Nhưng con đã nói với cô ấy rằng con sẽ không đợi mãi đâu.” Giọng gay gắt. Gượng ép.
Tôi nghĩ đến chiếc nhẫn của bà ngoại Elizabeth mà tôi đã cho nó. Có lần nó ướm lời tặng Tessa. Tôi tự hỏi bao lâu nữa nó mới lại xin mẹ trao nhẫn. Tôi nuốt nước bọt, hình dung về chiếc nhẫn trên ngón tay của cô gái đó.
Cuối cùng thì ai sẽ đeo nó? Tôi sẽ được thấy chứ? Chiếc nhẫn của bà ngoại tôi?
Lễ cưới. Người mẹ và con trai cùng khiêu vũ. Những đứa con. Những kỳ nghỉ.
Con trai tôi sẽ hạnh phúc chứ? Cuộc sống của nó sẽ tươi đẹp?
“Ờ, vậy là tốt rồi. Hãy tự chăm sóc bản thân trước tiên. Trên hết mọi chuyện khác.”
“Dạ.” Nó không cười, đôi mắt nheo lại, kiểu tôi biết những giọt nước mắt đang chực chờ. Tôi nhói lòng. Mùa xuân của tôi bỗng xỉn vàng sương giá.
Cuộc sống. Ngắn hơn.
“Chỉ cần an bình hạnh phúc thôi,” tôi nói. “Cuộc sống, tình yêu, bất cứ điều gì. Hạnh phúc và an bình.”
Như chiếc mô tô của nó? Như mối quan hệ tệ hại của nó với Tess? Hay an lành và bình yên như những lần hẹn khám bác sĩ và các dấu hiệu cảnh báo mà bạn không nên lờ đi.
Jake chớp mắt, chiếc nĩa của nó lơ lửng trong không trung như thể đang được nâng bởi một cái cần cẩu đồ chơi. “Mẹ không sao chứ? Trông mẹ tái nhợt.” Sự lo lắng ánh trong đôi mắt nó rồi lan sang cả cái cau mày mang nét buồn bã tư lự.
“Mẹ ổn mà.” Tôi lại hứ, với tay lấy một chiếc khăn ăn khác.
“Thực ra là không. Mẹ đầm đìa mồ hôi kìa. Con chắc đó. Mà ở đây lạnh ngắt.”
Một giọng cười hoang mang. “Mẹ ổn mà, Jacob.”
“Cha con các người nên lên kế hoạch cho một kỳ nghỉ là vừa.”
Lại hoang mang giọng cười.
“Hawaii hay gì gì đó. Nơi nào mà cha có thể chơi golf còn con thì kiếm được chút ánh nắng mặt trời. Nhâm nhi cocktail pha chanh.”
Golf và cocktail.
May quá, chuông cửa kêu vang.
“Để đó cho mẹ.” Tôi vọt lẹ.
Mẹ và Janie đang tranh cãi trước hiên suýt làm nước mắt tôi trào ra. Janie, hai tay ôm quá trời đồ, bắt đầu đẩy mọi thứ cho tôi - những túm bánh, bí xanh, cà tím…
“Nhìn này,” nó nói, tay lắc lư chiếc túi nhỏ. “Zilbert sắp đóng cửa mà mua rẻ một nửa đó.”
Trong chiếc túi nó đang đong đưa có một lô một lốc hộp nâu nhỏ bóng đẹp căng phồng lớp ni-lon.
“Nửa giá, hở? Hời đó.”
Nó cười toe toét. “Hàng độc giá rẻ tốt hơn loại thường. Phép màu.”
Phép màu.
Tôi lấy chiếc túi từ tay nó, những tuýp kem chống lão hóa yêu thích của chúng tôi lăn qua lăn lại như những kẻ tìm kiếm cảm giác mạnh trên con tàu dài - kiểu tàu cướp biển để tổ chức lễ hội. Nguy hiểm!
Chống lão hóa.
“Ở đây nghe mùi…”. Mẹ nói, đẩy cặp kính lên mũi. Bà dùng khuỷu tay thúc tôi sang bên. “Cháy phải không? Có mùi khét.”
Thở dài, tôi lắc đầu. “Cháy?”
Janie nhăn mũi cười khúc khích y chang hồi nhỏ. Tiếng cười đáng yêu, hầu như không phát ra âm thanh nên nghe hơi giả. Nhưng vẫn mãi là vậy, em gái tôi, nhỏ hơn tôi hai tuổi. Hai năm luôn có nghĩa là một cái gì đó trưởng thành, lớn lên, già hơn, tuy nhiên, ở tuổi 45 và 47, bây giờ thực ra chúng tôi giống hệt nhau.
“Thôi nào,” tôi nói, gỡ những chiếc túi tote ra khỏi tay nó. “Chắc nãy giờ mẹ loay hoay trong bếp.”
Thật tình thì mẹ tôi không có bất cứ điều gì rắc rối. Bà đang tráng rửa dĩa tô, cái xoong không của thằng Jake và một cái chảo rán còn dính dầu mỡ thịt viên và mấy con dao phết bơ. Bà luôn tìm việc để làm. Jake đang ngồi phía xa, cau mày trước một ô chữ.
“Steve đâu?” Mẹ hít hít như thể bà là chó săn còn chồng tôi là con mồi.
“Chơi golf, bà,” Jake hét to khiến Janie và tôi cười tức ruột.
“Chơi golf? Chơi golf! Chà...”. Bà lắc lắc đầu. Jake mỉm cười, nháy mắt với tôi và Janie. “Thôi mà bà, đó là sở thích của cha. Cha làm việc cực nhọc cả tuần. Cha xứng đáng hưởng chút thời gian để chơi chứ.”
Miếng xốp kêu ken két trên trên thớt. Bên cạnh tôi, Janie lại bấm bụng cười, vai nó rung rung khi cố gắng kìm lại. Tôi cũng vậy, tiếng cười sắp bùng ra, như những chiếc bong bóng căng phồng, cuộn xoáy - những dấu hiệu đầu tiên của một cơn bão.
Trong bồn rửa, mẹ cọ kin kít con dao vào đầu cái muỗng sứ. “Làm việc cực nhọc! Hừm. Đàn ông có nghĩa vụ phải chăm làm. Vào thời mẹ, tất cả đều làm việc chăm chỉ nhọc nhằn, và mẹ sẽ nói với các con điều này, cha của các con, ừ, cha của các con…”.
“Không bao giờ, chưa hề cần một ngày nghỉ,” tôi, Janie và Jake đồng thanh.
Mẹ quay ngoắt lại, chỉ cái muỗng gỗ vào chúng tôi, vài giọt nước thẫm nhỏ xuống nền đá phiến. Màu sắc ửng hồng trên má cùng nụ cười phẫn nộ trên môi. “Tại sao, các người…”. Bà vẫy chiếc thìa như một thứ vũ khí, nhưng bật cười vẻ thất bại và tắt vòi nước.
Jake, lúc này đang đứng ngay sau, choàng tay qua vai bà. “Xin lỗi bà. Không thể nhịn được ạ. Chọc bà giận dễ thật.”
“Và vui nữa,” Janie thêm. “Rượu?” Cô đang mở một chai vang trắng. Tôi không bao giờ uống rượu.
“Nhất định rồi.” Giọng tôi nhẹ như cơ thể đang chứa đầy khí heli, như tôi đang bềnh bồng trên mây.
“Tuyệt.” Em gái tôi mặt ánh vẻ tinh nghịch. “Còn mẹ sao nào? Tối nay say bữa với hai con gái cưng của mẹ chứ?”
Mẹ lắc đầu. “Say, Jane Louise? Say rượu? Con gái thì không…”.
“Mẹ!” Janie và tôi cười, hét tướng lên. Jake đứng cạnh dì, đang tự rót cho mình một ly.
“Chà, chuyện quái gì vậy?” Mẹ nói, cụng vào cánh tay của Jake và gật đầu nhìn cái chai trên tay nó. “Rót cho bà một ít, Jacob. Rót đi, ít thôi.”
Tôi thấy Janie tròn mắt và tôi biết mình cũng vậy. Mẹ uống rượu? Tôi nói to. Và bây giờ chúng tôi mới thực sự cười, bật cười, cười vang. Mặt của Janie nhăn cả lại và tiếng cười tuôn ra từ nó như một cái thùng phuy bị lật. Tôi cũng đang ứ tràn, bùng phát tràn lan đến mức muốn cuốn trôi, rửa sạch mọi thứ. Các khối u, u ác tính, giai đoạn bốn.
“Sao không?” Mẹ nói, nâng ly. “Chỉ sống một lần, phải chứ?”
Chỉ sống một lần.
“Ôi, thế này kia!” Giọng Steve oang oang trong phòng khách rồi lập tức anh xuất hiện ở đó, chồng tôi, người bạn thân nhất của tôi, tình yêu bạc của tôi. “Tất cả là gì đây?”
Steve liếc sơ quanh phòng, tôi chắc chắn một người sành sỏi như anh luôn biết phải làm gì trong mọi tình huống, lướt nhanh tới kệ bếp và với chút nỗ lực mở nút chai vang khác và rót cho mình một ly. Janie và tôi vẫn dựa vào bệ, và năm người chúng tôi xếp thành một vòng tròn. Chúng tôi kết thành một đám.
“Tôi đã bỏ lỡ điều gì rồi?” Steve hỏi bằng giọng mà tôi đã quá quen thuộc. Tốt hơn hoặc tệ hơn. Bệnh tật và sức khỏe. Cho đến khi cái chết làm chúng ta chia lìa.
“Chúng ta đang nâng ly chúc mừng chuyện gì?” Mặt Steve ửng đỏ sau trận golf. Anh quàng tay quanh người Jake, kéo thằng nhỏ vào người, ghì mạnh - bỗ bã, thô bạo, đàn ông với đàn ông.
“À, mẹ biết uống rượu, là một.” Đôi má đầy tàn nhang của Janey ướt đẫm nước mắt vì cười và mắt cô em gái tôi nhìn thẳng vào mắt tôi. Tỏa sáng, chớp nháy, truyền tải, chạm vào.
Thấu hiểu.
Tôi lau má, ngắm nhìn những khuôn mặt xung quanh mình.
“Cho chính bây giờ,” tôi nói. “Khoảnh khắc này.”
Hồ Nghĩa dịch từ nguyên bản The Last Supper
(TCSH391/09-2021)
............
* Tình yêu bạc: 25 năm kết hôn và chung sống.
NADINE GORDIMER
Salman Rushdie (1947), nhà văn và người viết tiểu luận, gốc Ấn, hiện sống tại Mỹ, là tác giả của nhiều tiểu thuyết gây tiếng vang, như Những đứa con của nửa đêm, được trao giải Booker, năm 1981, và cả những tiểu thuyết gây tranh cãi như Những vần thơ của Satan, 1988. Văn phong Rushdie thâm trầm, khoáng lộng, hài hước và tươi mới.
O’HENRY
FRANK O’CONNOR
Khi tôi tỉnh giấc, tôi nghe có tiếng mẹ ho ở nhà bếp. Mẹ bị ho đã nhiều ngày nhưng tôi không để ý. Chúng tôi sống ở Old Youghal Road, nơi mà vào lúc đó, có một con đường nhiều đồi dốc dẫn tới East Cork.
E. RUXACỐP (Nga)
ABDULRAZAK GURNAH
Tôi nghĩ anh ta đã nhìn thấy tôi đang tiến lại gần, nhưng vì lý do riêng nào đấy nên anh ta vẫn không có dấu hiệu gì.
Maurice Druon, sinh năm 1918, theo học Đại học Luật Paris. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông tham gia lực lượng kháng chiến Pháp chống phát xít Đức, là thông tin viên Đài Phát thanh Kháng Chiến. Giải Goncourt 1948 với tác phẩm "Đại Gia đình" (Les Grandes Familles). Các tác phẩm đậm chất trữ tình của nhà văn: "Kết thúc đời người" (La Fin des Hommes), "Hẹn gặp tại Địa ngục" (Rendez-vous aux enfers) phản ánh một thiên hướng theo trường phái Balzac.
Ông đồng thời là tác giả một số tiểu thuyết lịch sử.
GRAHAM GREEN
Cái chết đến kề như một nỗi nghiệt ngã day dứt mà ta hổ thẹn không dám thổ lộ với bạn bè hoặc đồng nghiệp.
ELISABETH SILANCE BALLARD
Một truyện ngắn cảm động về tình thầy trò. Truyện khiến người đọc có thể nghĩ chuyện xảy ra hôm nay, không phải cách đây hơn bốn mươi năm.
Tác giả tên đầy đủ là Heinrich Theodor Böll (1917 - 1985). Ông được coi là một trong những nhà văn lớn nhất của Đức thời hậu chiến. Năm 1972 ông được nhận giải Nobel Văn học. Tác phẩm và quan điểm chính trị của Böll thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội mang tính nhân văn. Các tiểu thuyết tiêu biểu của ông: “Thiên thần im lặng”, “Và tôi đã không nói một lời duy nhất”, “Nhà không có người che chở”, “Qua con mắt của chú hề”, “Bức chân dung tập thể với một quý bà”…
KATE CHOPIN
Catherine O’ Flaherty sinh năm 1850 tại Saint Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hóa, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh.
Nhà văn, nhà thơ, triết gia, họa sỹ, dịch giả Ấn Độ Rabindranath Tagore sinh năm 1861 tại Calcutta, Ấn Độ và mất năm 1941. Ông để lại một di sản văn học - nghệ thuật đồ sộ với hàng ngàn tác phẩm đủ các thể loại. Tagore còn là nhà yêu nước, đòi giải phóng Ấn Độ khỏi sự cai trị của Anh. Ông được trao giải Nobel văn học năm 1913.
O’Neil De Noux sinh ngày 29/11/1950 tại New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ông là một nhà văn Hoa Kỳ có sức sáng tác mãnh liệt với nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, đã có 42 đầu sách được xuất bản. Phần lớn sáng tác của ông là truyện trinh thám hình sự, tuy nhiên ông cũng viết nhiều thể loại khác như tiểu thuyết lịch sử, truyện dành cho trẻ em, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị, tình cảm, v.v.
JASON HELMANDOLLAR
Jason Helmandollar là một nhà văn người Mỹ, tác giả của nhiều truyện ngắn nổi tiếng được đăng trên các báo, tạp chí đang thịnh hành lúc bấy giờ như Encounters Magazine, Bartleby Snopes, Title Goes Here, Sideshow Fables. “The Backward Fall” là một trong những truyện ngắn hay và hấp dẫn của ông.
TIMUR JONATHAN KARACA
Timur Jonathan Karaca được sinh ra ở San Francisco. Ông là bác sĩ y khoa khoa gây mê tại UCSF. Ông sống ở Oakland, nơi ông hành nghề. Karaca theo học sáng tác tại Studio Hội Nhà văn San Francisco.
Naguib Mahfouz (1911 - 2006) sinh ra trong một gia đình nghèo tại Cairo. Ông học triết học tại Đại học Cairo và làm công chức cho tới khi về hưu năm 1971. Mahfouz là nhà văn lớn của Arab và của thế giới. Ông có 35 tiểu thuyết, 14 tập truyện ngắn và nhiều tác phẩm kịch. Tác phẩm của ông rất phổ biến ở phương Tây. Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
Truyện ngắn dưới đây diễn tả bi kịch của cá nhân khi bị phụ thuộc vào kẻ khác. Tuy nhiên, như rất nhiều tác phẩm khác của văn học Arab, nó còn mang tính ẩn dụ và nghĩa hàm ẩn.
ALBERT LAMORISSE (Pháp)
Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.
HISHAM BUSTANI
JOHN L’HEUREUX
HANS CHRISTIAN ANDERSON
Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.