Bồng bềnh 'Thiền mây'

09:39 28/09/2012

NGUYỄN KHẮC THẠCH 

Lâu nay, trên thi đàn bon chen vẫn thấp thoáng những bóng chữ u mê phóng chiếu cốt cách thiền. Người ta quen gọi đó là thơ thiền.

Ảnh: internet

Song, việc phân cách đặc trưng và nội hàm của nó mới chỉ là những thông ước chung trong trường nghĩa tập mờ. Sự à uôm giải đải của thói quen phiến diện trên bề mặt sự vật đã nhìn nhận thơ thiền ở tầng nghĩa y thức mà không đi sâu vào tầng nghĩa y trí. Bởi vậy, ở bình diện giữa đề tài với loại thể hoặc giữa hình thức với nội dung của dạng thơ này thật khó phân biện.

Thơ thiền vốn là hai phạm trù đối ngẫu vừa có nét tương đồng, vừa có phần dị biệt nhưng qua cuộc “hôn phối ngôn từ” thành cặp thơ thiền thì tại điểm đồng quy của chúng dường như chỉ còn tuyệt đối một. Tôi đã bồng bềnh qua Thiền mây - tập thơ mới của thi sĩ Trần Lan Vinh với chiêu thức quyến niệm một thực tại ảo bằng kinh nghiệm tâm linh trong cõi định vô ngôn để nghe tiếng vỗ một bàn tay buông mật ngữ thơ thiền. Thì ra thơ thiền không phải là sự vận hành ý tưởng qua dây chuyền cấu trúc cảm hứng của chủ thể để tạo ra tác phẩm nghệ thuật cho đối tượng có nhu cầu thụ hưởng nó. Thơ thiền là tia chớp trực ngộ của tâm hồn thi nhân băng qua mọi hàng rào khái niệm và phủ nhận mọi hình thức khẳng định cái tôi bản ngã. Nó trống vắng mọi kĩ năng kĩ xảo của thi pháp. Nó đến với người đọc cũng bằng sự chiêu cảm trực giác của họ mà không cần bất cứ một nỗ lực đáng kể nào từ trí lí. Trần Lan Vinh đã nương ngón tay chỉ trăng quán chiếu những bí ẩn u huyền diệu vợi của vạn hữu giữa chơi vơi:

Đêm thả giọt sao về cõi núi
Câu kinh tụng cởi kiếp luân hồi
Mưa tạnh lâu rồi nghe gió thổi
Hồn sương bỏ lối trắng chơi vơi


Vẻ tự nhiên nhi nhiên nhưng nó khuấy động những thâm căn thầm kín trong hiện thể nhân tình. Một cánh diều trăng huyền ảo cũng đủ nới rộng đường biên thực tại mà nơi đó không còn ý niệm nhị nguyên.

Một thoáng lửa chài trong sương trắng
Bờ tre níu lặng cánh diều trăng
Sóng nhập hồn sông lời nước chảy
Chuông chùa vọng đáy bước thinh không


Phải chăng tác giả đã đạt tới sự trải nghiệm tam muội trong cảnh giới chân thiền? Nơi đó là sự đồng nhất thể giữa con người và vũ trụ, giữa hữu hạn với vô biên. Thi sĩ qua đây cũng hoang dã như hoa cỏ. Tâm thức hiến dâng vô niệm hay sự hào phóng siêu nhiên là phẩm cách huyền cơ của những sinh linh hàng á thánh. Đấy cũng là phép nhiệm mầu khả thủ hoán vị vòng tri kiến giả lập giả danh bằng thực tại tri thức tối thượng. Người nghệ sĩ đích thực bao giờ cũng được mặc khải căn lành khai thị niềm thức ngộ của mình qua tác phẩm. Thơ thiền là nghệ thuật của chân không diệu hữu được kí thác bởi những pháp giới vô vi, những tâm hồn vô ngã. Ở bình diện khác thì thơ thiền là sự khế hợp không gian tâm cảnh với thời gian đồng hiện qua trường nghĩa mơ hồ và bất lực của ngôn từ. Những bài kệ hàm tính mục đích trong cửa nhà thiền dù có hình thức giống thơ đến mấy cũng không thể gọi là thơ thiền. Song, để định danh nó trong quan hệ loại thể thì có thể “cơ cấu” vào chiếu thơ đề tài thiền. Bài Cư trần lạc đạo của Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông thực chất là 4 câu kệ trong bài phú cùng tên mà vẫn lấp lánh đặc trưng thơ nhưng chưa phải thơ thiền vì nó vẫn còn chỗ phân biệt “đối cảnh” với “vô tâm” dù rất vi tế (Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền). Sự chia chẻ ở đây nhằm khảo sát tính chất chứ không phải đong lường giá trị. Một bài thơ thường chỉ mang lại trạng thái “giải tỏa” còn một bài kệ có khi thức ngộ đến cửa “giải thoát”. Cũng vậy, nếu là “tùy duyên” thì những bông hồng chưa hẳn đẹp hơn bông dược thảo. Thấm vào tôi từ lúc nào hương dược thảo ấy của một đồng nghiệp là nhà thơ Thu Nguyệt mà man mác mãi mùi thiền: Bàn tay nắm lại xòe ra/ nắm là thấy có buông là thấy không...

Thơ Trần Lan Vinh nói chung vốn ảo lạ từ xúc cảm đến biểu cảm, từ ý tưởng đến ngôn từ. Những ám tượng chung chiêng khúc xạ trong miền vô thức luôn dự nghiệm qua giọng thơ này. Vô thức là không gian phù thủy đầm đìa năng lượng tối mang hệ lụy bảo trì mọi xung lực nghệ thuật cho những linh căn đồng sàng chia sẻ. Riêng tập Thiền mây gần cả trăm bài này, tuy cùng thể loại (thất ngôn tứ cú) tưởng chừng như đơn điệu hoặc trùng lặp nhưng mỗi bài đều đa nghĩa và án ngữ hồn cốt riêng của nó. Nó thanh tú uyển nhã như tranh thủy mặc: Đồng xưa khói rạ hương cỏ ngái/ xóm bãi chày ai giã vợi chiều. Hoặc trầm lắng uyên áo như đài thuyết pháp: Rừng thông lá nắng vàng sóng sánh/ mây vào tận sảnh lắng nghe kinh. Có thể nói Thiền mây của Trần Lan Vinh là những ngõ đất- ao chùa - hồn mai - thỉnh nụ - tìm - niết bàn trong thiền uyển. Giữa cái vườn thiền thơ mênh mang tĩnh mạc này, người ta cũng có thể nghe một tiếng hét lạnh trời của Không Lộ thiền sư, một tiếng nước khua lòng ao xưa của con ếch Basho hoặc thấy một cành mai trổ rạng đêm của thiền sư Mãn Giác.

Và giữa muôn trùng sắc không hằng hữu ấy, ngôi đền thơ xao xuyến ấp iu Trần Lan Vinh hẳn còn duyên khải huyền tụng niệm...

N.K.T
(SH283/09-12)









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)