Biểu tượng hoa sen trên kiến trúc tháp Phổ Minh và triết lý Phật giáo thời Trần

15:14 25/11/2009
Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

Danh từ hoa sen được dùng cho nhiều vật dụng của chư tăng như liên hoa phục (liên hoa y) Hay khi chúng ta lễ Phật, hai bàn tay chắp lại thành hình hoa sen mà nhà Phật gọi là Liên Hoa Phật chưởng, biểu thị cho lý và trí cùng một thể. Hoa sen cũng tượng trưng cho cõi cực lạc. Theo các kinh tịnh độ tông thì ở “cõi cực lạc của Phật Adiđà có rất nhiều ao sen báu, trong mỗi ao có 60 ức hoa sen bằng bảy báu, tròn trịa vừa đúng 12 do tuần. Mỗi hoa sen là mỗi chỗ dành cho những người vãng sinh về giá thai, tùy theo công đức và căn cơ mà giá vào Thượng phẩm, Trung phẩm hay Hạ phẩm”(1). Như vậy, một trong nhiều ý nghĩa của bông sen vẫn được kể tới là: nơi để sinh ra. Đó là ý nghĩa bắt nguồn từ thời nguyên thủy mang tính tín ngưỡng tâm linh. Từ ý kiến trên, một điều có thể tạm rút ra là: hoa sen mang yếu tố âm. Cho nên trong kiến trúc người ta nhìn thấy đá chân tảng chạm đài sen (âm) làm chỗ kê của chiếc cột mang hình thức Linga - (dương) là sự kết hợp âm dương trong thể đối đãi, biểu hiện của sự cầu mong bền vững và sinh sôi nảy nở.(2)

ở Việt Nam hoa sen chẳng những quen thuộc trong đời sống hàng ngày mà còn xuất hiện trong các huyền thoại về những vị vua gắn bó nhiều với Phật giáo: Khi có thai vua Lê Đại Hành, mẹ vua nằm mơ thấy bụng nở hoa sen, vua Lý Thánh Tông mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên đài sen dắt vua lên tòa, vua Trần Nhân Tông “nằm ngủ trong chùa Tư Phúc mơ thấy từ rốn mình mọc lên một bông sen, trên bông sen có một vị Phật mình vàng.(3)

Song hành cùng sự phát triển của Phật giáo, hình tượng hoa sen không chỉ dừng lại là một biểu tượng phổ biến trong lĩnh vực tôn giáo mà nó đã được nhân dân ta đưa vào trong hệ thống kiến trúc cổ một cách đầy sáng tạo. Đó là hình thức chùa tháp hoa sen. Một trong những ngôi chùa “hoa sen” ra đời sớm nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam là chùa Diên Hựu, (có nghĩa là sống lâu muôn tuổi còn tên chữ là “Liên Hoa Đài”(4). Chùa được xây dựng từ năm 1049 thời Lý phỏng theo chùa Nhất Trụ ở kinh đô Hoa Lư. Tại đây, hình tượng hoa sen không còn là sự mô phỏng thông qua các chạm khắc nữa mà nó đã trở thành một hiện thực rực rỡ bằng kiến trúc: một bông sen khổng lồ được đặt chính giữa hồ sen.

Nó được xuất phát từ giấc mơ của vua Lý Thánh Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm dắt mình lên đài sen và từ gợi ý của nhà sư Thiền Tuệ, vua đã cho xây chùa, dựng cột đá giữa ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm trên cột như đã thấy trong mộng. “Riêng cây cột đá, có tài liệu nói cao 10 trượng, phù hợp với độ cao đủ chạm bông sen nghìn cánh ở đầu cột, và tòa điện Phật ở trên đầu cột phải to tương xứng, tất cả cứ vươn lên vài chục mét như một cây tháp. Có ý kiến lấy bình đồ chùa Diên Hựu so với tháp Phật giáo Mật Tông, nhận ra nhiều điểm tương đồng và coi chùa Diên Hựu là kiến trúc tháp Phật giáo”(5).

Mỗi kiến trúc tháp lại mang trong mình những dấu ấn riêng của từng thời kỳ lịch sử. Trong số những bảo tháp còn lưu lại đến nay, duy chỉ còn có tháp Bình Sơn (tháp Then) và tháp Phổ Minh thời Trần là những tháp cao quý nhất dành cho những vị đắc đạo thành Phật, có công lớn trong việc hoằng dương Phật pháp. Đáng chú ý hơn cả là tháp Phổ Minh - tháp của vua Trần Nhân Tông với danh phong là Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Phật. Có thể thấy, tháp Phổ Minh là đại diện tiêu biểu mang những đặc trưng của lối kiến trúc tháp thời Trần. Chúng mang tính cách là Tháp biểu tượng Phật. Những cây tháp này trước khi đi vào các tầng chính thức đều có phần bệ được chạm vòng quanh cả bốn mặt thành một đài sen lớn.

Phần đài sen này được cấu tạo một cách rất đặc trưng theo kiểu hình vuông tương tự như lối cấu tạo các bệ đá hoa sen thời Trần tìm thấy vào các giai đoạn sau này. Thú vị hơn, hai lớp cánh sen này, một ngửa một úp; lớp cánh sen úp là những cánh chỉ có tiếp diện nhìn nghiêng nằm úp xếp đều đặn với nhau; còn lớp cánh sen ngửa thì được xen kẽ giữa một cánh nhìn thẳng, một cánh nhìn nghiêng, khiến cho tiết điệu của các lớp cánh được thay đổi. Trên mỗi đầu của các cánh sen lại được tạo bởi hai văn xoáy, và trong các trang trí trên rìa cánh đều có những văn xoáy nhỏ điệp lại tạo nên sự sinh động, liên hoàn. Chúng như tạo nên biểu tượng cho bông sen nghìn cánh trong đạo Phật với những lớp chồng xếp sau trước, chứ không đơn thuần là hai lớp cánh được tạo hình một cách hết sức tượng trưng ở đây. Cái tinh tế không chỉ dừng lại ở việc tạo ra hai lớp cánh sen này. Người ta còn nhìn thấy một lớp cánh sen nhỏ hơn được điệp lại trong kết cấu tầng đầu tiên của tháp, mà ở các tầng tiếp theo không có, càng nhấn mạnh cho ý nghĩa tháp được đặt trong lòng của một bông sen khổng lồ, mà các tầng bắt đầu được tính từ đây trên lớp cánh hoa sen cuối cùng này, chứ không phải tầng chân đế. Thêm nữa, để nhấn mạnh hơn nữa ý nghĩa biểu tượng hoa sen cho cây tháp này, các nhà kiến trúc sư dân gian đã cho chạm motif sóng ở ngay chân tầng tháp. Những lớp sóng thủy ba này đã tạo nên cho cây tháp sự tinh tế, trong tính trang nghiêm.

Trong cấu trúc chùa Phổ Minh, còn một đặc trưng nổi bật nữa: đó là việc đào sâu sân tháp hơn sân chùa. Việc đào sâu móng này ngoài nhằm mục đích làm cho móng nền thêm chắc chắn, nó đã tạo một đường đi để các sư tăng khi thực hành nghi lễ kiểu chạy đàn. Đồng thời, thức kiến trúc này còn nhằm tạo ra biểu tượng một hồ nước nhấn mạnh cho hình tượng bông sen đá khổng lồ xòe nở. Lối kiến trúc này đã làm nên một cách điệu thật táo bạo, độc đáo, gây ấn tượng mạnh về hình tượng hoa sen nở trên mặt nước. Nếu như chùa Diên Hựu cho ta thấy hình tượng một bông hoa sen nghìn cánh dựng trên một cột trụ duy nhất làm trung tâm thì tháp chùa Phổ Minh gợi lên cho chúng ta một cái nhìn mới về sự phát triển một mô hình tháp nhiều tầng với dáng vẻ của hoa sen được hình dung thông qua các hình thức trang trí, chạm khắc trên thân tháp. Toàn bộ mô hình của cây tháp, khiến ta nhớ đến bức tranh Hoa Tạng thế giới trong kinh Tịnh Độ Tông, mà ngôi tháp giống như một sự hiện thực hóa của hình ảnh trong nghệ thuật kiến trúc.

Hình dáng của hoa sen cũng như sự sinh trưởng của nó còn mang lại cho ta những liên tưởng sâu sắc về cuộc sống. Rễ sen ăn sâu dưới bùn đại diện cho đời sống vật chất, cọng sen vượt ngang qua mặt nước tượng trưng cho cõi trung giới, còn hoa nở trong không khí trên mặt nước lại biểu thị cho thế giới tinh thần. Sở dĩ, người ta cho rằng hoa sen gắn với đạo Phật, bởi ở trong hoa đã có quả hay còn gọi là: vị liên cố hoa(6) tượng trưng cho một ý nghĩa “nhân quả” của Phật pháp. Đức Phật Thích Ca cũng đã dùng chính những ý nghĩa vi diệu này của hoa sen để chỉ ra: phương tiện Phật hóa độ chúng sinh chính là Phật pháp Đại thừa(7). Trong đó, những mưu cầu giải thoát cho cá nhân được xem nhẹ mà đặt lên trên hết là sự mong muốn đi đến giải thoát cho tất cả, mong đem lại sự giác ngộ chân lý tới mọi chúng sinh trong cõi trần ai. Quan niệm nhân sinh đó của Phật giáo Đại Thừa cũng chính là triết lý Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm thời Trần. Đây là thiền phái lớn nhất thời Trần, do vua Trần Nhân Tông sáng lập ra, nhằm mục đích gom toàn dân từ xác thịt đến linh hồn vào một khuôn khổ do họ Trần đặt ra. Điều đó biến Phật phái Trúc Lâm trở thành hình thái về mặt ý thức hệ của bộ ba “tam vị nhất thể” gồm Phật - Vua - Cha, phương tiện đắc lực giúp nhà Trần cai trị con dân. Trong đó, Vua - Cha là điều đã có sẵn, các vua Trần chỉ sáng tạo thêm Vua - Phật. Đối với các vua Trần thì Vua chính là Thần, là giáo chủ. Nhà Trần đã thực hiện ý đồ đồng nhất Vua với Phật, biểu hiện rõ nét nhất chính là việc hư cấu, mô phỏng cuộc đời của Trần Nhân Tông từ lúc sinh thành cho tới khi lên ngôi rồi đắc đạo, giống như thái tử Siddnartha trở thành Phật Tổ.

Ngay cả khi vua Trần Nhân Tông qua đời thì những nghi thức mai táng cũng như thờ cúng sau này đều được thực hiện giống như với một vị Phật. Theo các tài liệu thế kỉ 19 ghi chép về việc mai táng cho vua Trần Nhân Tông, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng tháp Phổ Minh chính là ngôi tháp chứa xá lị Trần Nhân Tông. Việc đặt xá lị Trần Nhân Tông ở tháp Phổ Minh phù hợp với các quy định về kiến trúc tháp của Phật giáo. Phó giáo sư Nguyễn Duy Hinh nhận xét cấu trúc tầng một, nơi có ô “bàn cờ” (bệ nhỏ hình vuông, việc vạch những ô cờ lên đây có thể là việc làm của người đời sau) và Long ngó mà cho rằng vào thời Trần có thể tượng đặt ở chính giữa, cấu trúc này là dùng cho vua đã hóa Phật. Chính vì thế, tháp để xá lị của Trần Nhân Tông đều cao tầng. Nhưng vì đã mang danh Điều Ngự cho nên tháp phải cao hơn tháp Bích Chi Phật (11 tầng) tức phải cao 13 tầng(8). Mang hiện thân của một đóa sen vàng rực rỡ, cây tháp chính là biểu tượng cho sự đồng nhất Vua - Phật, Phật - Vua. Biểu tượng này còn được gia cố thêm bởi hình tượng của những con rồng ở bốn phía cửa tháp. Rồng tượng trưng cho vua, mà tháp tượng trưng cho Phật. Cái tên Phổ Minh cũng phản ánh được phần nào tư tưởng của Phật phái Trúc Lâm đó là: “Hòa quang đồng trần”, tức đem ánh sáng Phật pháp tinh khiết hòa vào cõi trần ô trọc để làm cho tất cả sinh linh đều được giác ngộ với xu hướng nhập thế tích cực.

Tư tưởng Phật giáo đó còn được thể hiện qua lối bố cục kiến trúc của những ngôi chùa, tháp thời kỳ này. Cùng với sự ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa, số lượng tượng Phật thời Trần trở nên tương đối nhiều. Do đó, tượng không đặt trong tháp mà được đưa vào trong một Phật điện to, rộng hơn. Điều đó đã khiến cho những cây tháp thời kì này không còn chiếm lĩnh được vị trí trung tâm như trước kia mà chỉ còn mang tính chất biểu tượng và được đẩy ra phía trước chùa. Tháp Phổ Minh, vươn cao sừng sững như nối trời và đất, dù cách xa hàng cây số, người ta vẫn có thể trông thấy. Nó không chỉ là điểm nhấn cho toàn thể kiến trúc chùa mà còn trở thành cánh cổng mở ra thế giới tâm linh cho hàng ngàn tăng ni, phật tử hướng về, tượng trưng cho Phật pháp vô biên, chiếu rọi ánh sáng luân lý đến thế giới trần tục, phổ độ muôn vạn chúng sinh.

Như vậy, thông qua hình tượng hoa sen, những nghệ nhân thời Trần đã mang đến cách tiếp cận mới về đạo Phật thông qua kiến trúc, một cách thật cụ thể và hữu hình.

Chú Thích:

1 Cầm (Vương Kim Phan Bá), Hoa sen với Đạo Phật, tư liệu viện mỹ thuật mã tài liệu TL- 95/ CĐ- 82.

2 Trần Lâm Biền (chủ biên), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, Nxb Văn Hóa Dân Tộc, Tạp chí văn hóa nghệ thuật- Hà Nội- 2001.

3 Tống Trung Tín, Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (thế kỷ XI- XIV), Viện Khảo Cổ Học, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1997.

4 Vũ Tam Lang, Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Xây dựng, 1991

5 Chu Quang Trứ, Mỹ thuật Lý Trần mỹ thuật Phật giáo, NXB Mỹ Thuật, 2001.

6 Một trong ba nghĩa thù thắng của hoa sen là trong khi hoa nở thì sen đã phát sinh.

7 Phật Thích Ca đã đem ba nghĩa vi diệu của hoa sen dụ với ba nghĩa của môn Quyền thực và môn Bản Tích. Trong đó, ý nghĩa đầu tiên của môn quyền thực là “vị thực thi quyền”có nghĩa:”Thật là cái diệu pháp của Phật tự chứng, còn quyền là cái phương tiện của Phật hóa độ chúng sinh. Phật từ thục pháp Đại thừa mà phương tiện ra vô lượng quyền giáo khiến cho tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật quả. Đó là vì “thật” đặt ra”quyền” cũng đồng nghĩa với “vị liên cố hoa”.

8 Nguyễn Xuân Năm, Di tích chùa tháp Phổ Minh ở Nam Hà, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử
 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.