KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY MẤT CỦA NHÀ THƠ BÍCH KHÊ (1946 - 2016)
PHẠM PHÚ PHONG
Nhà thơ Bích Khê - Ảnh: internet
Sự ra đời của thơ mới làm thay đổi toàn bộ diện mạo của đời sống văn học. Đó là sự đổi mới về câu từ, giọng điệu, cấu trúc, thể thơ... mà cái chính là ở cảm xúc và tư duy. Từ những thay đổi về cảm xúc đưa đến những thay đổi tư duy, mở ra một thời đại mới trong thi ca, với những tên tuổi rạng rỡ như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương v.v; trong đó không thể không kể đến một nhóm, một trường phái, một dòng thơ, mà ở đó cái gì cũng dữ dội, cũng tha thiết, cũng đắm say, cũng muốn đi đến tận cùng, cái tận cùng đầy tuyệt vọng, đã xuất hiện trên thi đàn như một “niềm kinh dị” đó là trường thơ Loạn, nơi quy tụ những tên tuổi như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Quách Tấn, Yến Lan, Hoàng Diệp. Mỗi người đều thống nhất với nhau một nguồn chung, nhưng đều có một thi pháp biểu hiện riêng và đã đạt được những thành tựu khác nhau, còn sống mãi trong thi đàn dân tộc. Đã có nhiều công trình đánh giá tương đối đầy đủ về những đóng góp của từng người, trong bài viết ngắn này tôi chỉ xin rẽ bóng thời gian nhìn lại vị trí của Bích Khê trong trường thơ Loạn.
1.
Trong hồi ký Miền Nam Trung bộ, đất thơ trong kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm đã tự hào về những tổ chức văn học có tính chất tự phát, tập hợp những người làm thơ có cùng quan niệm trước Cách mạng tháng Tám như “văn đoàn Thái Dương ở Bình Định, văn đoàn Tương Lai ở Kon Tum, nhóm thơ Cẩm Thành ở Quảng Ngãi” và đặc biệt là trường thơ Loạn do Hàn Mặc Tử sáng lập năm 1936. Có người chia thơ mới thành ba dòng: dòng ảnh hưởng thơ Đường, dòng ảnh hưởng thơ Pháp và dòng thơ thuần Việt. Có người chia thành nhiều nhánh thơ nhỏ hơn, dựa vào những người sáng tác có cùng quan niệm: nhánh của Thế Lữ, nhánh của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, nhánh của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, nhánh Xuân Thu nhã tập và trường thơ Loạn. Thật ra đây chưa hẳn là một trường phái, có tổ chức, có cương lĩnh có điều lệ với sự tham gia của nhiều người, mà chỉ là một nhóm người có cùng quan niệm, cùng sở thích, cùng tập hợp nhau lại, ra một tuyên ngôn... Ra đời tại Bình Định, trường thơ Loạn đã thu hút những tài năng nghệ thuật, đặc biệt tạo ra một dòng thơ lạ lẫm, kì dị khiến cho nhiều người phải giật mình sửng sốt. Tòa thơ của họ vụt cao chót vót nối tầng cao nhất của thiên đường với tận cùng địa phủ, từ đó tạo ra thứ ánh sáng huyền hoặc buộc người ta phải ngước nhìn vừa trầm trồ chiêm ngưỡng, vừa hốt hoảng hoang mang. Nếu Hàn thi sĩ chỉ dừng lại ở Gái quê (1936), thì chưa có gì đặc biệt so với thơ ca lãng mạn thời đó, phải đến Đau thương (Thơ điên) mới sừng sững một Hàn Mặc Tử như ta có hiện nay. Thật ra, đây chỉ là bước nối tiếp của chủ nghĩa lãng mạn trong thơ mới, nó đã đặt bàn chân của mình vào chủ nghĩa tượng trưng và đưa vào thơ những nét chấm phá đầu tiên của chủ nghĩa siêu thực. Chủ nghĩa tượng trưng nằm trong phạm trù mỹ học tư sản, thực chất là chủ nghĩa duy tâm trong văn học. Ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa tượng trưng Pháp thế kỷ XIX, mà người đề xướng là Baudelaire, họ cho rằng “giữa vũ trụ và con người có mối quan hệ siêu việt. Thế giới được cảm nhận chỉ là sự phản ánh một vũ trụ tinh thần. Thơ phải nắm bắt được “tương giao bí ẩn” đó giữa con người và vũ trụ”. Trong Tựa cho tập Điêu tàn, được coi là tuyên ngôn của trường thơ Loạn, Chế Lan Viên không chỉ trình bày ý kiến của mình mà còn dẫn cả ý tưởng của người đồng điệu với mình rằng: “Hàn Mặc Tử nói: làm thơ tức là điên. Tôi thêm: làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại. Nó xáo trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai”. Tiến sâu hơn, Hàn Mạc Tử còn bước sang miền mộng ảo, đến với xứ sở của siêu thực: “Trí Người đã dâng cao và thơ Người cao hơn nữa. Thì ra người đang say sưa đi trong Mơ Ước, trong Huyền Diệu, trong Sáng Láng và vượt hẳn ra khỏi ngoài Hư Linh... Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. Với Bích Khê hầu như không có một tuyên ngôn, tuyên bố gì, mà cách lập ngôn đầy đủ nhất của ông là thông qua thực tiễn sáng tạo. Ngay cả trong Tinh huyết (1939), tập thơ duy nhất được in lúc sinh thời của tác giả, cũng do Hàn Mặc Tử viết lời Tựa thay cho ông.
Điều đáng lưu ý là tuy nói Loạn mà không loạn, Điên mà không điên. Không bừa bãi, cẩu thả, mà được trau chuốt cẩn trọng từng câu, từng từ, nhằm thể hiện cảm xúc luôn khao khát được sống hết mình, được cảm nhận và thấu hiểu cuộc sống hết mình, đòi hỏi người thi sĩ phải sống bằng trái tim, bằng tâm hồn cháy bỏng từng giọt lửa yêu thương, phải mở lòng rộng rinh, lắng nghe tiếng nói thầm thì ở nơi tĩnh lặng nhất của cõi lòng mình, phải thét, phải gào cho thỏa những khát khao, ước mong về thế giới đau thương, về cái đẹp, về tình yêu và cuộc sống. Điều ấy thể hiện rõ rệt thông qua sáng tác của những tác giả chủ chốt của nhóm như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê. Những người còn lại, tuy có tham gia, có sự tương đồng về quan điểm, nhưng chưa có sự bứt phá trong sáng tác, một Quách Tấn mực thước với thể thơ Đường luật và chưa dám chuyển mùa, chỉ dừng lại ở Mùa cổ điển, một Yến Lan (đến với trường thơ Loạn với bút danh Xuân Khai) vẫn còn loanh quanh bên Bến My Lăng...
2.
Trường thơ Loạn mang âm hưởng chung là nỗi đau đớn, tiếc thương cuộc sống đã hoặc đang lụi tàn, khát khao ôm cả đất trời vào trái tim nhỏ bé của con người, ước vọng điên cuồng chiếm lĩnh cả không gian, thời gian, năm tháng của cuộc đời. Cũng trong khát vọng muốn biến cái hữu hạn thành cái vô hạn ấy, nhưng Bích Khê không có những Đau thương, Điêu tàn như ở Hàn và Chế. Không có sự đau đớn, bi thương đến hốt hoảng cố bám riết vào đời sống với nỗi đau tuyệt vọng như Hàn Mặc Tử; không có những không gian hoang lạnh, một thế giới bị lãng quên, bên những hồn ma vất vưởng như Chế Lan Viên. Bích Khê không bị ám ảnh bởi cái chết, mà có thể từ cái chết làm nẩy sinh một thế giới khác, nó rực rỡ, sáng láng một cách kỳ lạ. Chiếc đầu lâu là biểu tượng của sự chết chóc. Cái sọ người của Chế Lan Viên là cả khối xương khô, gợi nhớ đến pháp trường ghê rợn, đến những đóm lửa ma trơi, đến cõi chết; nhưng vào thơ Bích Khê, Sọ người là bình vàng, chén ngọc, là hương thơm, là ánh sáng... Cũng với cách nhìn vừa ảo vừa thực ấy, thế giới hiện thực đi vào thơ ông được khúc xạ bởi một thứ ánh sáng khác, tạo ra thế giới âm thanh, màu sắc rực rỡ đến chói chang. Dường như nó được chưng cất từ những gì thanh khiết và cao quý nhất của đất trời. Nó không còn là cõi phàm trần nữa, mà là cõi tiên, cõi mộng, cõi siêu thăng chỉ có linh hồn thoát tục mới vươn tới được:
Đêm ôm hồn tôi chơi phiêu diêu
Bắt gặp nàng thơ diện yêu kiều
Man mác cho nên nhớ chị Hằng
Hai tôi nhịp nhàng lên cung trăng
(Nghê thường)
Cũng như các nhà thơ mới và những người đồng điệu trong trường thơ Loạn, Bích Khê cũng nói nhiều đến trăng. Nhưng trăng của ông không phải là thứ “trăng nằm sóng soãi trên cành liễu”, không phải là “trăng tan thành bọt nước” như Hàn Mặc Tử; cũng không phải “vừa dâm tục ôm trăng vờ vật ngủ” như Chế Lan Viên... Trăng của Bích Khê không còn là trăng của đất trời, của không gian bao la mang ý nghĩa vật chất, mà là vàng trăng, ngọc trăng, chén trăng, sữa trăng có thể tiếp nhận bằng vị giác:
Chén trăng vừa tầm với
Chàng ơi, vàng ròng đây
Kề môi say ân ái..
(Ngũ Hành Sơn)
3.
Với Bích Khê, thơ không chỉ là nghệ thuật cao quý, thanh khiết của tâm hồn, là những gì tinh túy được đấng tối cao ban phát, mà còn là một đặc chủng nghệ thuật tổng hợp, có thể dung nạp nhuần nhuyễn các yếu tố của các loại hình như âm nhạc, hội họa, lại có cả tính tạo hình của điêu khắc, nhiếp ảnh, thậm chí có cả kiến trúc tham dự vào, tuy chỉ là yếu tố hình thức của hình thức: “Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới” (Duy tân)... Có thể nói, trong tâm hồn chật chội của ông luôn chứa đựng một không gian rộng rinh trong đó đầy ăm ắp những âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối, vừa cụ thể vừa trừu trượng có những bài thơ như Nghê thường, Tì bà khi đọc lên, thật khó mà phân biệt đâu là yếu tố của hình tượng ngôn từ, đâu là yếu tố của hình tượng âm thanh. Đỗ Lai Thúy đã phân tích một cách xác đáng, khi dẫn hai câu thơ vần bằng độc đáo của Xuân Diệu để so sánh với Bích Khê: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” (Nhị hồ). Nhưng với Bích Khê không chỉ một câu, một bài mà còn nhiều bài toàn vần bằng như Mộng Cầm ca, Nhạc, Thi vị, Cơn mê, Hoàng hoa, Nghê thường, Tiếng đàn mưa... Ở góc độ này thể hiện tài năng của ông, không chỉ là nhà ảo thuật về ngôn từ mà là con người biết sử dụng các biến tấu, biết trêu đùa các giai điệu để phổ vào tâm hồn, bắt nó phải ngân lên. Chịu ảnh hưởng của các nhà tượng trưng, ông cho rằng thế giới là sự giao hòa kỳ diệu giữa âm thanh, màu sắc, hình khối và hương thơm:
Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa
Tôi tưởng chừng... da thịt biến ra thơm
(Châu)
Sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh, màu sắc, hương vị và đường nét, tạo nên tính tạo hình cho ngôn ngữ thơ ca một cách sắc nét. Có bài theo cái vỏ ngữ âm được miêu tả, có thể vẽ ra những bức tranh đẹp như Tranh lõa thể, Ảnh ấy, Đề ảnh, Trên núi Ấn ngắm sông Trà... Đã có bao tranh vẽ về Truyện Kiều của Nguyễn Du: Tô Ngọc Vân vẽ Tú Bà, Nguyễn Đỗ Cung vẽ Từ Hải, Nguyễn Tường Lân vẽ Kiều ngủ, Lê Lam vẽ Kiều tắm... Bích Khê yêu thương con người, yêu cái đẹp của người phụ nữ và ca ngợi vẻ đẹp thân xác có tính chất trần tục của nó. Ông không chỉ yêu và miêu tả nó như một đối tượng mà còn biến nó thành phương tiện để biểu hiện khát vọng của mình. Chính vì thế ông trở thành người ca tụng thân xác, ca tụng những phẩm chất kỳ diệu mà tạo hóa ban cho họ. Không chỉ ở tấm thân vật chất với những đường cong tuyệt mỹ mà còn cả mùi vị thanh sạch, hương thơm tinh khiết, buộc người ta không chỉ nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, tiếp cảm bằng da thịt mà còn có thể nhận ra mùi vị bằng khứu giác, vị giác:
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Và chút trăng say đọng ở làn môi
Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi
…
(Tranh lõa thể)
Không có cái gì có thể khuất phục được cả thời gian như cái đẹp, như nghệ thuật, như người phụ nữ, nó có thể bắt “Bóng thời gian phải quỳ dưới chân nàng”. Ca tụng thân xác đến mức ấy thật là hiếm thấy.
Người ta hay phê phán tính nhục dục, chất chứa hơi thở xác thịt có tính chất dục vọng, thậm chí có người còn đẩy đến mức dâm cuồng thác loạn, trong thơ Bích Khê. Song do nhiều yếu tố chi phối, trong đó có một phần do quan niệm nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng, một phần là do hoàn cảnh bệnh tật, những năm cuối đời ông như quả bóng đã được bơm căng hơi thở đời sống, khi chạm đến tận cùng của nhục dục để rồi nó bật tung lên vời vợi của sự thanh khiết, đến lúc ấy, những gì là tội lỗi, ghê rợn đều trở nên thanh sạch, trong lành, cao quý biết bao nhiêu. Ở điều này, Bích Khê cũng khác với chất trần trụi của Chế Lan Viên (Ngủ trong sao, Tắm trăng), hoặc mơ màng của Hàn Mặc Tử (Bẽn lẽn, Cô gái đồng trinh, Mùa xuân chín)... Bích Khê đã tái tạo lại những gì mà thượng đế đã sáng tạo ra và đem cho nó sức sống mãnh liệt, hơn cả tấm thân vật chất của người nghệ sĩ tài hoa đoản mệnh, vì chính đấng tối cao dường như cũng đem lòng ghen tị.
4.
Người đoản mệnh chưa chắc đã tài hoa, nhưng không ít những người tài hoa đã rơi vào tình trạng đoản mệnh trong một hoàn cảnh nào đó. Những người không cùng thế hệ với Bích Khê, có Nam Cao cuộc đời chỉ dừng lại ở tuổi 36, Thâm Tâm 33, Thạch Lam 32, Hàn Mặc Tử 28, Vũ Trọng Phụng 27, Phạm Hầu và Nguyễn Nhược Pháp 24... Đó là những người mà tác phẩm của họ có sức sống lâu bền hơn tấm thân vật chất của người sinh ra nó. Bích Khê cũng không thoát ra khỏi mệnh số đa đoan của con người tài hoa bạc mệnh. Cũng như Bích Khê, những người mà tôi chưa thể thống kê đầy đủ trên đây, nếu tạo hóa còn cho họ có thêm cơ hội, chắc chắn rằng họ còn có khả năng đóng góp nhiều hơn. Ngay cả những người chưa đến với lý tưởng và nền văn học cách mạng, Nguyễn Viết Lãm cũng tin tưởng rằng họ sẽ chào đón cuộc đời mới một cách nhiệt thành, hồ hởi: “Tôi có biết anh Bích Khê, gặp anh năm 1941 tại Sông Cầu... Ngày khởi nghĩa tháng Tám, anh đang bị bệnh phổi nặng nhờ người nhà khiêng cả giường nhỏ anh nằm ra trước cổng để tự mình trực tiếp nhìn thấy nhân dân xuống đường, trực tiếp sống cái giây phút giải phóng đất nước, giải phóng tâm hồn người làm thơ. Tôi hiểu sâu sắc nỗi niềm của anh, cũng như từng hiểu ít nhiều tấm lòng anh Hàn Mặc Tử ngày anh còn sống. Trong không khí hào sảng của cuộc khởi nghĩa cả nước, tôi cứ nghĩ rằng, cũng như Bích Khê, nếu Hàn Mặc Tử còn đến hôm nay, anh sẽ cùng chúng tôi, xuống đường biểu tình cùng với quần chúng cách mạng”. Nhưng biết làm sao được. Nguyễn Du đã từng nói về tài mệnh tương đố. Trên thế giới không thiếu những tài năng sớm ra đi, nhưng những gì họ để lại khiến cho hậu thế vừa ganh tỵ vừa phải kính cẩn nghiêng mình: Nhạc sĩ tài hoa người Áo F.P. Schubert ra đi lúc 31 tuổi, thiên tài âm nhạc Ba Lan F.F Chopin 39 tuổi, nhà phê bình văn học người Nga nổi tiếng V.G Belinski 37 tuổi, nhà thơ Nga danh tiếng M.Y Lermontov 23 tuổi, nhà toán học Pháp E.Galois 21 tuổi...
Cùng chống chọi với bệnh tật như những tác giả cùng thời, những Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Phạm Hầu, Nguyễn Nhược Pháp; hoặc cũng giống như người trong cùng trường thơ Loạn là Hàn Mặc Tử, nhưng Bích Khê có thái độ chấp nhận, đón chờ cái chết đến trong tư thế của một người biết rằng mình không thể cưỡng lại số phận. Về mặt thi pháp hình thức, cách đặt nhan đề của tác phẩm cũng thể hiện rõ điều đó. Hàn Mặc Tử đi từ Gái quê đến Đau thương (Thơ điên), Bích Khê có Tinh huyết, Tinh hoa, rồi Đẹp. Trong hồi ký Trong bóng nguyệt soi của chị ruột Lê Thị Ngọc Sương kể về những ngày cuối đời của Bích khê, càng chứng tỏ được rằng, ông đã chuẩn bị cái chết rất chu đáo: “Chàng mời người chị thứ sáu lên, đọc lời di chúc, nhờ chị chép lại và xin mẹ, căn dặn mẹ làm đúng theo lời tuyệt mệnh: 1. Khi chết không được khóc. 2. Chết xong niệm]liền, chôn liền. 3. Niệm giản dị, một tấm vải trắng đắp thi hài, một cái hòm thường và đám tang không cần kèn trống. 4. Bà con đến phúng điếu, không nhận tiền bạc. 5. Ngày giỗ chỉ thắp hương trầm và cắm hoa, không được đặt đồ ăn trên bàn thờ...”. Hãy hình dung, những dặn dò này là của một người sắp chết, nói với mẹ mình, cách đây đã tròn sáu mươi năm! Chính vì thế, cũng chừng ấy thời gian đã qua đi, thơ ông vẫn còn là nỗi kinh hoàng, là “niềm kinh dị”, vẫn có sức lay động trái tim nhiều thế hệ độc giả, vẫn đồng hành cùng với đời sống thơ ca hiện đại, và sự tiên cảm của ông:
Gió tiêu sẽ quạt buồn thanh tịnh
Về chốn thôn gia viếng mả tôi
Đầy cỏ xanh xao mây lớp phủ
Trên mồ con quạ đứng im nơi
(Nấm mộ)
Tôi đã từng về thăm mộ ông ở Thu Xà, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi quê ông. Trong khói nhang nghi ngút, không hiểu sao, tôi vẫn hình dung ra hình tượng “con quạ đứng im hơi” trên nấm mộ nhỏ, nằm lẫn khuất giữa bao nhiêu mộ của chúng sinh. Cuộc đời sinh để mà tử và tử để mà sinh. Thân xác ông nay chắc chẳng còn gì. Nhưng con quạ đứng trên mộ ông - trong thơ ông vẫn còn đó, như chiếc bóng của thời gian.
P.P.P
(TCSH325/03-2016)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH