Từ năm 2012 đến nay, Hội Đông y Thừa Thiên-Huế đã tiếp cận và giải mã kho tư liệu châu bản triều Nguyễn đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia 1 (Hà Nội).
Từ đó, nhiều bí mật về cuộc sống, công việc, vinh nhục của các quan ngự y cũng như bệnh tật của các vua Nguyễn đã phần nào hé lộ.
Thái y viện triều Nguyễn
ThS - lương y Phan Tấn Tô, Phó chủ tịch thường trực Hội Đông y Thừa Thiên-Huế, cho biết từ năm 2012 đến nay, Hội Đông y Thừa Thiên-Huế đã chủ trì thực hiện đề tài khoa học Thu thập, biên dịch và đề xuất hướng sử dụng các bài thuốc của Thái y viện triều Nguyễn. Để thực hiện đề tài này, ông Phan Tấn Tô cùng các cộng sự thuộc Hội Đông y Thừa Thiên-Huế đã vào các thư viện, trung tâm lưu trữ quốc gia ở TP.HCM, Đà Lạt và Hà Nội để sưu tập tài liệu.
Tại Trung tâm lưu trữ quốc gia 1 (Hà Nội), Hội Đông y đã tìm thấy hơn 300 trang châu bản về các bài thuốc của Thái y viện triều Nguyễn, có châu phê của nhà vua, chữ ký của các vị ngự y, đóng dấu Thái y viện, dấu Ngự tiền chi bảo và dấu Cơ mật viện… được lưu trữ. Qua tư liệu châu bản, cùng với những ghi chép trong sách Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (Quốc sử quán triều Nguyễn) và nhiều tư liệu lịch sử liên quan khác đã cho thấy cơ cấu bộ máy tổ chức Thái y viện, quy trình khám bệnh, bốc thuốc cho nhà vua, hoàng thân quốc thích, cung tần, mỹ nữ cùng quan lại trong triều đình nhà Nguyễn.
Thái y viện triều Nguyễn được hình thành từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, đến tháng tư năm Giáp Tý (1804) cơ bản được hoàn chỉnh. Cơ sở Thái y viện ban đầu được xây dựng ở phường Dưỡng Sinh trong kinh thành vào năm Canh Ngọ (1810). Đến thời Minh Mạng dời về phía đông Duyệt Thị đường, trong Tử Cấm thành. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820) cơ cấu bộ máy Thái y viện mới hoàn chỉnh, đứng đầu là quan chính ngự y (hàm chánh ngũ phẩm), cấp phó có 2 người quan Phó ngự y (hàm tòng ngũ phẩm), tiếp đến là các quan y chính (12 người, hàm chánh thất phẩm, bát phẩm và cửu phẩm), quan y phó (12 người, hàm tòng thất phẩm, bát phẩm và cửu phẩm), dưới quan y chính là quan chính y sinh (12 người, hàm chánh cửu phẩm) và phó y sinh (30 người, hàm tòng cửu phẩm); ngoại khoa, có 20 người, gồm y chính (2 người, hàm chánh bát phẩm), phó y chính (2 người, hàm tòng bát phẩm) và quan y sinh (16 người, hàm tòng cửu phẩm). Đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829) người đứng đầu Thái y viện được nâng lên chức viện sứ, hàm chánh tứ phẩm; đến năm 1823 thì đặt thêm chức viện phán, làm công việc ghi chép sổ sách, công văn của viện.
Nghiêm ngặt quy trình khám chữa bệnh
Quy trình khám bệnh và dâng thuốc cho nhà vua được thực hiện thường xuyên, thể hiện ở châu bản dưới hình thức bản tấu. Thời Gia Long có cả thảy 94 trang châu bản ghi chép các bản tấu dâng thuốc cho nhà vua dùng.
Trước hết là quan nội giám truyền chỉ cho Thái y viện biết là vua đang mắc bệnh, “long thể bất an”. Nhận được chỉ, Thái y viện họp lại và cử người vào ngự chẩn. Những người xem mạch cho vua hay người trong cung thường được chọn trước. Như năm Minh Mạng thứ 19 (1838) chuẩn lời tâu: “Y chính Viện Thái y là Đặng Văn Giảng, Trần Duy Huân đều là người cẩn hậu, cấp cho bài ngà (thẻ bài bằng ngà voi - PV) để vào cung xem mạch”. Thời Thiệu Trị thì chọn y chính Hoàng Đức Hạ, y phó Nguyễn Văn Đường. Thời Tự Đức chọn Nguyễn Tất Cát, Lê Quang, đều là người lão thành, am hiểu mạch, được đeo bài ngà vào cung xem mạch.
Ngự chẩn xong phải giải thích biện chứng cho vua biết. Sau đó trở về viện họp nghị bàn luận trị. Sau khi “hội chẩn”, Thái y viện làm bản tấu (tờ khải) dâng tiến ngự dược, có tên, chữ ký, khuôn dấu của các ngự y, ấn triện “Thái y viện quan phòng” và tên, chữ ký, dấu triện của quan kiểm thị, cùng tên của người viết bản tấu dâng lên cho nhà vua xem. Xem xong, nhà vua có ý kiến ghi vào bằng nét son gọi là châu phê, với các nội dung là: Dĩ lãm (đã xem), hoặc Tri đạo liễu (đã biết rồi).
Các châu bản thời Gia Long cho thấy nhà vua thường châu phê dài, có tính động viên như: Đã thấy công hiệu thật sự (Dĩ kiến chân hiệu, châu bản ngày 11 tháng 11 năm Gia Long 18); hoặc một tờ khác nhà vua phê: Kính cẩn luận cho được y lý, cốt thấy được công hiệu (Kính cẩn biện lý vụ kiến công hiệu, châu bản ngày 2 tháng 12 năm Gia Long thứ 18).
Ngự y tham gia khám chữa bệnh cho vua, có khi 1 người, có khi 2 đến 4 người, hoặc nhiều hơn, tùy bệnh trạng. Người khám bệnh được chỉ định có thể là quan ngự y, cũng có thể là các quan lại khác am tường về y thuật. Các tờ châu bản còn cho thấy có khi thầy thuốc không phải là người của Thái y viện mà là một vị quan hay thầy lang ở ngoài.
Các ngự y khi khám chữa bệnh cho vua đều cho thấy một tâm thế lo sợ, kính cẩn. Trong bản tấu thường mở đầu với các cụm từ: “Chúng thần ở Thái y viện cúi đầu sát đất, trăm lạy, cẩn tấu, dâng lên đấng bề trên…”.
Theo TNO
Hàm Nghi là vị vua thứ 8 của triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Lên ngôi khi mới 13 tuổi nhưng Vua Hàm Nghi đã sớm chứng tỏ tinh thần yêu nước của mình. Ông kiên quyết không hợp tác với thực dân Pháp và chịu nhiều khổ ải trong suốt cuộc đời. Gắn liền với vị vua yêu nước này còn là câu chuyện chưa có lời giải về một kho báu bí ẩn.
(SHO) - Hiên nay, hàng trăm hộ dân ở xã Dương Hòa, thị xã Hương Thủy và xã Bình Thành, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, vẫn chưa có đất sản xuất sau khi nhường hàng ngàn héc-ta đất lâm nghiệp và đất vườn, nhà ở cho dự án hồ Tả Trạch để chuyển về sống tại các khu tái định cư.
Quốc học Huế sáng chủ nhật, cổng trường vẫn mở. Những cổ thụ, tường mái rêu phong cổ kính trở nên trầm rũ, tịch liêu, u hoài khác thường, như để phân ưu, tiễn đưa một trong những người học trò ưu hạng của trường đi xa mãi mãi.
(SHO) - Từ ngày 5 đến hết ngày 18.10, các đêm nhạc mừng sinh nhật Phạm Duy sẽ lần lượt được tổ chức tại Huế, Nha Trang, Đà Lạt, TP.HCM.
Huế nổi tiếng với vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông Hương, nét cổ kính của cầu Trường Tiền hay những lăng mộ uy nghi tráng lệ. Thế nhưng, ngoài sự độc đáo của cảnh vật là nét đẹp mê hồn của người con gái xứ Huế.
Có những người cháu nội vua Thành Thái chỉ mong được một lần về thăm Huế nhưng ước mơ ấy trở nên quá xa vời bởi gánh nặng áo cơm.
Sau 6 tháng khai trương “Gác Trịnh” vào dịp kỷ niệm 12 năm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chiều ngày 26/9/2013, căn gác nhỏ của người nhạc sĩ tài hoa xứ Huế tràn ngập tiếng đàn, tiếng hát của các chị cựu nữ sinh Huế xưa với chương trình văn nghệ “ Nhìn những mùa thu đi”.
(SHO) - Vừa qua, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quyết định điều chỉnh phân công quản lý di tích khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
(SHO) - Nhằm đẩy mạnh xã hội hóa công tác xây dựng bảo tàng, UBND TP Huế đã kêu gọi các nhà nghiên cứu, nhân sĩ trí thức cùng xây dựng Bảo tàng văn hóa Huế trong thời kỳ mới.
Triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam-những bằng chứng lịch sử” khai mạc sáng 20/9 tại Bảo tàng văn hóa Huế.
Trong Hội thảo Văn hóa quốc tế năm 1995 tổ chức tại Đà Nẵng, bà Điềm Phùng Thị có kể lại những gian khổ trong thời gian du học ở châu Âu, những năm sau Thế chiến thứ hai. Vừa hành nghề nha sĩ, vừa làm học viên “tự do” theo học điêu khắc, rồi tổ chức triển lãm và đã có nhiều tượng đài xây dựng trên đất Pháp.
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế vừa mới ký quyết định phê duyệt dự án đầu tư phục hồi công trình tả Tùng Tự - Đại nội Huế.
Chiều 18/9, tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, triển lãm Dĩa sứ thời Nguyễn của 2 nhà sưu tập cổ vật Đoàn Phước Thuận và Trần Đắc Lực đã được khai mạc.
(SHO) - Tháng 10/2012, dự án “Tu bổ, phục hồi di tích Quan Tượng Đài” trong hệ thống dự án “Bảo tồn, tu bổ và tôn tạo hệ thống Kinh thành Huế” đã được khởi công. Trong đó, đình Bát Phong được phục dựng mới hoàn toàn theo kiến trúc cũ. Công trình đã được hoàn thành vào đầu tháng 9/2013.
Ở Huế, có một người phụ nữ đam mê với nghề làm trống, sau tiếng trống là cả một bầu tâm huyết, bà là Hồ Thị Thương, nổi danh với hiệu trống Âm Hồn.
Sáng ngày 15/9/2013, Hội Sân khấu Thừa Thiên Huế đã tiến hành tổ chức bế mạc Trại sáng tác Sân khấu 2013
Sáng ngày 15/9, Hội Nghệ sĩ sân khấu Thừa Thiên Huế tổ chức kỷ niệm Ngày Sân khấu Việt
Huế là một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước, với hệ thống chùa chiền dày đặc, nhiều chùa được liệt vào hàng quốc tự. Tuy nhiên, tiềm năng về du lịch văn hóa tâm linh vẫn chưa trở thành thế mạnh, góp phần phát triển KT-XH của thành phố
Cách Huế khoảng chừng 40 km, làng Phước Tích thuộc xã Phong Hòa- huyện Phong Điền từ lâu được biết đến với những ngôi nhà rường in bóng thời gian và nghề gốm truyền thống lâu đời.