Bài ca chiến thắng của tình yêu con người đối với mọi thế lực bạo tàn

08:44 22/01/2025
(Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

Jean - Claude Grumberg (JCG), một nhà viết kịch, nhà văn nổi tiếng ở Pháp, nhưng có thể nhiều bạn đọc chưa nghe tên bao giờ - cũng như với nhà văn Han Kang (Hàn Quốc) vừa bất ngờ đạt giải Nobel. Thế giới mênh mông, cái biết của mỗi người chúng ta là rất nhỏ bé.

Tôi có may mắn gặp dịch giả Trương ThịAn Na - nguyên là giảng viên tại trường Đại học Khoa học - Đại học Huế và Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, khi cô trở lại thăm Huế cùng thân phụ là thầy Trương Quang Đệ, từng là Trưởng Khoa Ngoại ngữ Đại học Sư phạm - Đại học Huế nhiều năm. Nhờ đó, tôi mới biết JCG và tác phẩm mới của ông. Trước đó, ông đã là tác giả của khoảng 30 vở kịch và tất cả kịch bản đều đã in thành sách. Tác phẩm “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời”; Món hàng quý giá nhất (MHQGN - bản tiếng Việt) của ông ngay sau khi xuất bản đã nhận được nhiều giải thưởng…

MHQGN dày chưa đến trăm trang, nhưng theo tôi, đây là một tiểu thuyết có sức níu giữ người đọc rất lâu, sau khi buông cuốn sách. Với tài nghệ của một tác giả sân khấu nổi tiếng, mỗi chương trong MHQGN đến với độc giả như là một màn kịch đầy cuốn hút nhờ tình huống bất ngờ mà người đọc khó đoán trước được. Nói như dịch giả - PGS. Phan Ngọc, đây là “mẹo” của nhà tiểu thuyết, trộm nghĩ, các tác giả đang muốn níu kéo bạn đọc có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm về nghệ thuật dựng truyện, kết cấu chương hồi qua tác phẩm MHQGN. Tuy vậy, “món hàng quýgiánhất” mà tác giả gửi đến bạn đọc không phải là nghệ thuật viết tiểu thuyết mà là sự thức tỉnh nhân loại trước tai họa do một lớp người bị“mùlòa” nhưng lại tự coi mình là thượng đẳng, gây ra, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp tuyệt vời của lòng nhân hậu, tình yêu thương đối với con trẻ…

Tiểu thuyết bắt đầu bằng một chương rất ngắn, như chỉ để kể một câu chuyện cổ tích: “Ngày xưa, một người đàn ông đốn củi và vợ sống trong một khu rừng lớn…”. Cuốn tiểu thuyết chủ yếu xoay quanh khung cảnh như thế, nhưng ngay lập tức, tác giả lại phủ định: “Không đâu, không đâu…” hẳn là để bạn đọc chớ vội nghĩ đây là một chuyện “cổ tích”, vì chỉ mấy dòng sau, bối cảnh tiểu thuyết đã được mở ra: “…vào thời điểm mà chiến tranh thế giới đang hoành hành xung quanh khu rừng này.”

Chỉ vậy thôi, tác giả không trực tiếp miêu tả trận đánh nào trong “chiến tranh thế giới” - ở đây là thế chiến thứ hai. Có thể nói luôn ở đây là MHQGN sẽ giúp những ai có ý định tiếp tục khai thác đề tài chiến tranh kinh nghiệm quý giá: đó là không “sa lầy” vào việc miêu tả các sự kiện “ngày xưa” và đã có quá nhiều sách báo nói đến; chỉ chọn lựa những câu chuyện - có khi là các “góc khuất” chạm đến những vấn đề nhân bản, khiến người đọc xúc động sâu xa.

MHQGN là một tác phẩm như thế.

Con tàu là tàu chở hàng và bà vợ ông đốn củi tưởng tượng con tàu chở đầy ắp thức ăn, quần áo và mơ ước một ngày nào đó người ta ném cho bà thức ăn hay quần áo vì thế khi nhận được con bé thì bà xem như là một món hàng quý giá nhất đời. “Món hàng” quý vì bà không có con, bà lại đã hết tuổi sinh đẻ, nên càng quý, vì đó là “thứ mà bà cầu khẩn không biết bao nhiêu ngày tháng, một thứ của những giấc mơ của bà”. Trớ trêu thay, khi bà cuốn chặt sinh linh bé nhỏ đó với mấy lớp khăn quàng… siết chặt cái kho báu của mình vào lòng” thì bà cảm thấy “cái miệng ham hố vừa mới bú cái vú chảy sệ của bà, rồi dừng, rồi la hét…. Nó đói, đứa bé đói, con tôi đói. Bà cảm giác trở thành mẹ, vừa sung sướng, nhưng lại rơi vào cảnh chết người…”. Vì bà là một bà mẹ không sữa. Đã thế, ông chồng đã sớm phát hiện ra cái dấu vết “chết người” trên mình đứa bé, sau khi nghe bà vợ cho biết “niềm vui của đời tôi” do “các vị thần của con tàu ban tặng”

Ông đốn củi làm thuê cho bọn “chiếm đóng” nên biết rõ những đoàn tàu đi qua khu rừng chở toàn người Do Thái, “đến giữa tâm điểm của địa ngục” thì sẽ bị “xử lý” trong các lò thiêu! Ông bảo vợ: “Nếu bọn Đức mà tìm thấy đứa bé ở nhà ta thì chúng bắt chúng ta úp mặt vào tường thôi.” Khi ông định mang đứa bé ra đặt lại trên đường tàu thì “bà vợ ông đốn củi điên tiết nhào tới, giật lấy gói hàng trong tay ông chồng…”. Việc không thành, nhưng khi bà vợ dọa nếu ông ném xuống dưới bánh tàu hàng cả hai mẹ con thì ông sẽ bị nguyền rủa suốt đời, ông đốn củi đã nhượng bộ…

Bạn đọc không thể dự đoán được số phận ba nhân vật kể trên sẽ đi tới đâu -như trên đã viết, đó là “mẹo” của nhàtiểu thuyết. Đó là chưa nói đến mảng thứhai của cuốn tiểu thuyết - cũng ba nhân vật, đan xen với mảng thứ nhất. Đó là người bố đã ném con bé xuống tuyết khi anh ta thấy bà già như đang đón đợi điều gì đó bên đường tàu. Lúc đó, trên toa tàu còn cô vợ và đứa con song sinh với bé gái vừa bị/được ném xuống. Tác giả chỉ “trích yếu” một góc nhỏ trong tấn thảm kịch hàng ngàn người Do Thái cứ lần lượt bị đưa lên các chuyến tàu một đi không trở lại - ngoại trừ một số rất ít, như người cha của cặp sinh đôi ra đời vào mùa xuân năm 1942. Anh ta, một sinh viên y khoa sắp tốt nghiệp, nên được chọn làm người cắt tóc cho nạn nhân trên các chuyến tàu - những thân người ngắc ngoải bị ném xuống bên đường hoặc đưa đến lò thiêu, nhưng mái tóc thì được thu gom để biến thành hàng hóa! Biết chắc là cảgia đình mình sớm muộn sẽ phải chết, sau bao dằn vặt đau đớn, anh đành chọn cách ném một đứa con xuống, may ra…

Đúng là anh và con bé đã gặp may, nhưng phải trải qua biết bao tình huống kịch tính đến nghẹt thở. Nhưng không chỉ có thế, tác giả không chỉ giỏi tạo ra tình huống truyện đầy kịch tính mà quan trọng hơn là các tình huống bất ngờ đều đặt ra vấn đề nhân bản khiến bạn đọc phải suy ngẫm về tính người của nhân loại cho đến tận hôm nay, chứ không phải chỉ là chuyện “ngày xưa” trong thế chiến 2.

Vâng! 80 năm qua, sau thế chiến 2, nhân loại vẫn chưa tỉnh ngộ, biết bao nhiêu cuộc chiến và thảm sát đã diễn ra trên khắp địa cầu, hàng triệu con người đã phải chết vì đạn bom, vì bạo lực! Bất kể vì lý do gì, những cuộc tàn sát ấy cũng là sự “mù lòa” của con người. Thật trớ trêu khi con người lại “tự hào” đã tiến lên mặt trăng, sao hỏa và chế được tên lửa “siêu thanh”!

Ôi chao! Ước chi những kẻ“tựhào” sản xuất được vũkhígiết người “nhanh hơn chớp” ấy được đọc những trang sách miêu tả ông đốn củi “vô học” và thô vụng, từ chỗ định ném trả lại đứa bé ra đường tàu, vì ông cũng lây bệnh “mù lòa”, lặp lại như vẹt lời bọn chiếm đóng rằng con bé là “sản phẩm của quỷ dữ, một kẻ không có tim”, đến lúc tỉnh ngộ, đã trân quý cái sinh linh bé nhỏ ấy như thế nào. Đó là cái đêm ông phải thức giấc vì nghe tiếng khóc con bé, định thụi cho nó một cú, nhưng bà vợ đã kịp đưa bàn tay chai sần ấy đặt lên ngực “quà tặng” quý nhất đời bà và nói: “Bọn không có tim cũng có một quả tim giống y như tôi và ông thôi.” Phải nói mấy lần như thế, người chồng mới bắt đầu tỉnh ngộ, sau khi tuôn ra những câu nói khủng khiếp, ông cảm nhận “một cái gì nồng ấm, một cái gì êm dịu mới mẻ mà sự tiếp xúc của lòng bàn tay mình với làn da và quả tim của món hàng bé nhỏ làm nẩy sinh tận đáy lòng những nhịp tim mà từ nay ông cảm thấy nó đang đập trong lòng mình…”.

Tuy vậy, tác giả không đơn giản hóa nhân vật, ông đốn củi không dễ thừa nhận ngay “cái của nợ này”, nhưng rồi cũng đến ngày - khi ông “nâng nó lên tới mặt ông, cho tới râu ông, nó giơ tay để tháo cái mũ của ông, hoặc kéo mấy sợi râu của ông…” thì đó là lúc hạnh phúc tuyệt đỉnh, là ngày “tốt đẹp hơn tất cả những ngày trước đó”, ông bàng hoàng, đôi mắt ướt đẫm… Và trong một buổi nhậu say khướt của đám người làm thuê, khi cả bọn “Dzô dzô dzô - bọn không tim hãy chết hết đi!” thì ông đốn củi sau một lúc im lặng đã thét lên: “Bọn không tim có một quả tim đấy!” Nhưng thật là đau đớn, vào lúc Con Người tỉnh ngộ, không còn là con vẹt hò hét theo lý lẽ của “bọn chiếm đóng” mà dám nói lên sự thật thì đó cũng là lúc một kẻ cũng làm thuê cho bọn chúng như ông, phát hiện ra con bé và dẫn theo hai “dân quân” đến… Bạn có thể hình dung cuộc “đụng đầu” diễn ra thế nào không? Xin không dẫn đoạn miêu tả bạo lực khá ác liệt không thể tránh được với kết cục: Ông đốn củi - con người tỉnh ngộ, dám nói lên sự thật, đã phải trả giá bằng sinh mạng của mình, sau khi tiêu diệt những kẻ “mù lòa” chỉ biết theo lệnh bọn chiếm đóng. Điều quan trọng hơn là ông đã kịp bày “thế trận” để bà vợ ôm được con bé chạy vào rừng sâu…

Lại một tình huống bạn đọc không thể đoán trước được. Trong rừng sâu, tại một nơi bí hiểm nhất, có một “người đàn ông có cái đầu tật nguyền” do không chịu làm tay sai cho bọn chiếm đóng, nhưng có trái tim nhân hậu, đã nhường bớt sữa con dê đang nuôi, cứu sống con bé từ nhiều ngày trước, khi bà đốn củi tìm thấy nơi ông trú ẩn. Tuy vậy, hôm nay, lần đầu, ông cho bà bước vào “căn cứ địa” của mình. Khi đặt đứa bé bên cạnh con dê, người đàn ông nói: “Này con gái của các thần linh ơi. Đây là mẹ nuôi của con đó. Mẹ thứ ba của con.” Đứa bé mừng rỡ, ôm ghì lấy con dê, con dê buông thả mình trong vòng tay con bé…”. Ôi! Không lẽ loài người lại có những kẻ nhẫn tâm hơn súc vật? Hình như đã có học giả nêu vấn đề như thế rồi hỏi: Đã có ở đâu các đàn bò - loại súc vật vẫn bị xem là “ngu như bò” - lao vào bắn giết nhau như con người chưa?!

May sao là chiến tranh kết thúc khi những người lính Hồng quân xuất hiện. Nhưng thật xót xa, hai chiến sĩ Hồng quân thận trọng luồn vào rừng sâu, “nhìn thấy một người đàn ông có súng, họ bắn gục ông ta tại chỗ”; và khi lật mặt người bị bắn, họ “nói với giọng khinh bỉ: “Một lão già chả ra sao!”” Liệu có nên trách hành vi vội vàng của người lính? Hẳn là hai người lính nghĩ rằng đây là tay sai của bọn Đức; cũng có thể nghĩ đây là “tai nạn” không tránh khỏi do “quán tính” ghê gớm của một cuộc chiến tranh đã giết chết hàng triệu người!

Sáng hôm sau, bà mẹ chôn cất ân nhân, “bà khóc như mưa như gió, khiến cho món hàng bé nhỏ cũng khóc theo”. Tay dắt đứa bé, tay dắt con dê nhằm phía mặt trời mọc mà đi…

Câu chuyện tiếp tục bằng một hình ảnh vừa bất ngờ vừa nói lên một tấm lòng cao thượng của con người đó là khi ông bố ruột của con bé đã tìm thấy con bé con mình nhưng vì nó đang ở trong tay người mẹ nuôi cưu mang nó với bao khó khăn nên ông rời đi và để bù đắp cho sự mất mát đó ông đã trở thành bác sĩ nhi khoa để chăm sóc cho những đứa bé con người khác và còn nữa… xin dành phần kết cuốn sách để bạn đọc thả trí tưởng tượng.

MHQGN là một tiểu thuyết, được dựng nên từ trí tưởng tượng của tác giả. Ở trang gần cuối sách, JCG cũng đã viết: “Đương nhiên là không, hoàn toàn không có thật…”. Tuy vậy, trang “Phụ lục cho những người yêu thích các chuyện thực” liền đó, tác giả đã cung cấp cho bạn đọc số liệu cụ thể đoàn tàu số 45 xuất phát từDrancy ngày 11/11/1942 chở778 người - trong đócómột người mùlà ông nội của tác giả và đoàn tàu số 49 xuất phát ngày 2/3/1943 chở một ngàn người Do Thái, trong đó có thân phụ của tác giả! Hầu hết bị thiêu chết, năm 1945 chỉ còn 6 người. Tác giả dẫn tư liệu trên từ một cuốn sách xuất bản ở Pháp, trong đó có một cặp song sinh tại quận 10 Paris bị đưa lên đoàn tàu số 64!...

Như vậy đó. Thực tế và trí tưởng tượng của nhà văn có thể không trùng hợp nhưng đúng như tác giả đã viết cuối tiểu thuyết: “Đây là điều duy nhất xứng đáng để tồn tại trong những câu chuyện kể cũng như trong đời sống thật. Tình yêu thương, tình yêu thương dành cho con trẻ, cho con mình cũng như cho con người khác. Dẫu sự vật có tồn tại hay không tồn tại thì, tình yêu thương làm cho cuộc sống này luôn được tiếp tục.” Và có thể nói, dù chỉ một sinh linh bé nhỏ vượt qua cái chết, đây cũng là bài ca chiến thắng của tình yêu thương con người đối với mọi thế lực bạo tàn…

N.K.P
(TCSH430/12-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…