Kasimir Malevich (1878-1935) sinh ra tại Kiev, Ukraine. Như nhiều họa sĩ tiền phong Nga trước Thế chiến I, ông chịu ảnh hưởng từ cả Trường phái Vị lai và Lập thể, nhưng đã nhanh chóng chuyển hóa những tư tưởng của nghệ thuật phương Tây thành những tư tưởng về hội họa mang tính cá nhân độc đáo, để lại những dấu ấn vĩnh viễn không thể xóa mờ trong nghệ thuật hiện đại.
Kasimir Malevich, 1918, Suprematist Composition: White on White (Bố cục Siêu Việt: Trắng trên Trắng), sơn dầu, Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại, New York.
Tôi bắt đầu thấy rõ đã đến lúc cần sáng tạo, kiến thiết những khuôn khổ mới cho việc biểu đạt màu sắc thuần túy theo đòi hỏi của màu sắc; và thứ hai, màu sắc nên thôi là một hỗn hợp biểu đạt cho sự vật mà nên trở thành một nhân tố độc lập, tham gia vào quá trình kiến tạo tác phẩm như một cá nhân trong một hệ thống tập thể và như một cá nhân độc lập.
Hệ thống được kiến tạo trong không gian và thời gian, độc lập với tất cả những vẻ đẹp, kinh nghiện và sắc thái thẩm mỹ: nó đúng hơn là một hệ thống màu sắc mang tính triết học nhằm hiện thực hóa những thành tựu mới nhất của những ý niệm trong tôi, giống như tri thức vậy.
Ở thời điểm hiện tại, con đường mà con người đi phải trải qua không gian và trường phái Siêu Việt (Suprematism) là một hệ thống truyền tin thị giác bằng màu sắc trong vực thẳm vô tận của nó.
Màu xanh của da trời đã bị đánh bại bởi hệ thống của trường phái Siêu Việt, nó đã bị đột phá, để cho màu trắng bước vào – đó mới là hình dung đích thực, chân thực về cái vô cùng và do đó, nó được giải phóng khỏi nền màu của bầu trời.
Hệ thống vốn cứng rắn, lạnh lùng, nghiêm nghị, nó gợi ra được cảm giác chuyển động là bởi ý niệm triết học, hoặc nếu không thì khi ở bên trong hệ thống, sức mạnh thực sự của nó đang chuyển động.
Tất cả việc tô màu gắn với chủ đích thực dụng đều vô nghĩa hoặc chỉ có ý nghĩa hẹp hòi, nó chỉ mang ý nghĩa ứng dụng đơn thuần, đã hoàn tất, xong xuôi của một thứ đã được tìm thấy nhờ sự quan sát hoặc là hệ quả của suy tưởng triết học, một thứ nằm trong tầm nhìn hữu hạn của chúng ta, thỏa mãn một thị hiếu tầm thường thay vì tạo ra một cái gì đó mới.
Trong một giai đoạn mà trường phái Siêu Việt đã trải qua, nhờ màu sắc, các họa sĩ đã tạo được hình ảnh về sự vận động mang tính triết học thuần khiết, rồi ngay tức thì, nó trở thành một hình thức mang tính ứng dụng, tạo nên một phong cách trang trí của trường phái Siêu Việt.
Nhưng hình ảnh của sự vận động ấy cũng có thể xuất hiện trên các sự vật như là sự chuyển hóa hay hiện thân của không gian ở chính bản thân chúng, trục xuất khỏi ý thức ý niệm về tính chỉnh thể của sự vật.
Từ suy tưởng triết học về màu sắc của trường phái Siêu Việt, ta thấy rõ ý chí có thể phát lộ một hệ thống sáng tạo khi người nghệ sĩ dám phá hủy sự vật như là khuôn khổ của biểu đạt hội họa, như là phương tiện; chừng nào sự vật vẫn còn là khuôn khổ và phương tiện, ý chí của anh ta vẫn sẽ bị ràng buộc, loay hoay giữa những bố cục, những hình thức vốn có của vật thể.
Tất cả những gì chúng ta nhìn thấy đều khởi từ một khối màu lớn rồi trở thành mặt phẳng và thể tích, và bất cứ máy móc, nhà cửa, bàn ghế hay thậm chí con người – chúng đều là những hệ thống thể tích mang thuộc tính của hội họa được ấn định cho những mục đích xác định.
Họa sĩ cũng nên tìm cách chuyển hóa những chất liệu hội họa từ đời sống và tạo ra một hệ thống độc đáo, nhưng không phải bằng cách vẽ những bức tranh nho nhỏ với những bông hồng xinh xắn, vì chúng là sự biểu hiện chết, chỉ làm người ta nhớ đến những hiện hữu sống.
Và thậm chí nếu bức tranh vẽ theo khuynh hướng phi vật thể song vẫn dựa trên mối tương liên về màu sắc thì ý chí sáng tạo vẫn bị giới hạn bên trong bức tường của những mặt phẳng thẩm mỹ thay vì một sự thấu suốt triết học.
Tôi chỉ tự do khi nào ý chí của tôi, trên cơ sở của ý thức phê phán và triết học, có thể từ những gì đã hiện hữu, xây dựng nên nền tảng cho những hiện tượng mới.
Tôi đã xé toạc chiếc chao đèn màu xanh da trời của những hạn định về màu sắc, và hòa mình vào màu trắng; theo sau tôi, những phi công – đồng chí của tôi cùng bay hút vào hố thẳm không gian – tôi đã thiết lập hệ thống truyền tin thị giác của trường phái Siêu Việt.
Tôi đã tóm được lớp vải lót của thiên đường, tôi đã kéo nó xuống, xé toang ra, biến nó thành chiếc túi, đựng màu sắc vào trong đó, buộc nó lại. Nào, bay thôi! Màu trắng, hố thẳm tự do, cái vô cùng trước mắt ta đó.
[1919]
Kasimir Malevich
Hải Ngọc dịch (Theo Twentieth – Century Artists on Arts, ed.by Dore Ashton, NY:Pantheon Books, 1985, trang 36-38.)
-------------------------
*Tên bài viết do người dịch đặt
Nguồn: Tia Sáng
Sinh ra trong gia đình “Danh gia vọng tộc” về nghệ thuật, có bố là NSND Doãn Hoàng Giang lừng lẫy của sân khấu, mẹ là nữ diễn viên Nguyệt Ánh được xếp vào hàng mỹ nhân nghiêng nước, nghiêng thành của thập niên 70 nhưng Doãn Hoàng Lâm không núp dưới bóng cả.
Sau nửa thế kỷ miệt mài sáng tác, họa sĩ Lê Hàn đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật, giành được nhiều giải thưởng uy tín. Nhưng nhắc đến sự nghiệp của ông, người yêu hội họa nhớ mãi những bức tranh vẽ chân dung phụ nữ bình dị mà vẫn toát lên vẻ đẹp nội tâm sâu thẳm.
KHẢ HÂN
Trào lưu nghệ thuật nữ quyền luận xuất hiện vào khoảng cuối những năm 1960 với những tên tuổi như Judy Chicago, Miriam Schapiro, Martha Rosler, Barbara Kruger, Hannah Wilke…
Ngày 8-3 tới, triển lãm “Giá Thánh”- một góc nhìn đặc biệt về tín ngưỡng Thờ mẫu của họa sĩ Trần Tuấn Long sẽ được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam. Đây là triển lãm hội họa về tín ngưỡng Đạo Mẫu đầu tiên sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Say mê nghệ thuật, đi nhiều, vẽ nhiều, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ có nhiều tác phẩm hội họa giá trị, nhiều đóng góp cho sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam...
Nếu nói Đỗ Phấn là người nổi bật nhất xét trên khía cạnh vừa vẽ, vừa viết trong giới văn nghệ cũng thấy không ngoa chút nào.
KHẢ HÂN
Nghệ thuật xếp đá là một loại hình nghệ thuật trình diễn được thực hiện qua việc tạo ra sự cân bằng tự nhiên lên trên đỉnh của một viên đá ở nhiều vị trí khác nhau.
Cuộc gặp gỡ của thi ca và hội họa đã là một truyền thống ở các nước Á Đông cũng như ở Việt Nam.
KHẢ HÂN
Julie Mehretu, sinh năm 1970 ở Ethiopia, là một nhà họa sĩ, hiện đang sống và làm việc tại New York.
Nguyễn Sáng vẽ Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ vào năm 1956, kích thước 112,3 x 180 cm, chất liệu sơn mài. Ngay sau khi hoàn thành, bức tranh đã dấy lên nhiều tranh cãi gay gắt trong giới mỹ thuật.
KHẢ HÂN
Nghệ thuật mandala là một loại hình nghệ thuật tiêu biểu của truyền thống Phật giáo Tây Tạng.
Ngày 14/12, tại Hà Nội, Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức kỷ niệm 110 năm ngày sinh họa sỹ Tô Ngọc Vân (15/12/1906-15/12/2016) - một trong những danh họa hàng đầu của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Trong các nghiên cứu về danh họa Nguyễn Gia Trí, lác đác có vài nhận xét: Nguyễn Gia Trí chịu ảnh hưởng từ nữ họa sĩ người Pháp Alix Aymé thời cận đại (Mỹ thuật Đông Dương). Vậy Alix Aymé là ai?
TUỆ NGỌC
Robert Rauschenberg sinh năm 1925 tại Port Arthur, Texas, Mỹ, được xem là một trong những nghệ sĩ tiền phong hàng đầu Hoa Kỳ.
PHƯỚC VĨNH
Cách đây tròn 70 năm, năm 1946, họa sĩ Tô Ngọc Vân cùng họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim được Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam cử vào Bắc Bộ phủ xin vẽ Hồ Chủ tịch.
Victor Tardieu (1870 – 1937) thường được nhắc đến với vai trò sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của ông đến hội họa Việt Nam đầu thế kỷ 20 còn sâu sắc hơn thế.
HẠ NGUYÊN
Từ ngày 3/9 đến 12/9, danh họa Nguyễn Đại Giang đã về Huế bày tranh nghệ thuật đảo ngược. Một cuộc triển lãm kỳ thú, và cả những hoạt động của ông cũng góp phần làm cho Huế sôi động: vẽ ký họa chân dung cho công chúng, nói chuyện với sinh viên Đại học Nghệ thuật Huế, tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Huế 3 bức tranh, trong đó có bức “Ca Huế trên sông Hương” thật sự tuyệt mỹ …
TUỆ NGỌC
Có lẽ, trong lĩnh vực hội họa khó có nữ họa sĩ nào hơn được Frida Kahlo trong việc biến nỗi đau thành suối nguồn nghệ thuật.
HUỆ VIÊN
Công án - một phương pháp khai phóng tư duy
Trong các công án Thiền, có rất nhiều cách giáo hóa của các vị chân sư rất phũ phàng, thậm chí điên khùng, nhưng nó lại có tác dụng kì lạ, làm cho học trò kinh ngạc, bất ngờ giác ngộ.