Bao la nhân ái một con người

14:58 18/05/2018

TRẦN NGUYÊN HÀO  

Lòng nhân ái của Bác Hồ dành cho mọi người dân Việt Nam; tình yêu thương ở Bác lan tỏa đến những người nô lệ mất nước và những người cùng khổ trên khắp thế gian, cho những người da đen bị phân biệt chủng tộc, cho cả những người da trắng bần cùng, cho những người phụ nữ các nước đế quốc thực dân có chồng con bị đưa sang Việt Nam và nước thuộc địa làm bia đỡ đạn; và cho cả chính những người lính ở bị đưa đi đánh nhau và nhận những cái chết oan uổng trong các cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa.

Đại biểu học sinh trường trung học Trưng Vương (Hà Nội) đến chúc thọ Hồ Chủ tịch (5/1956). Ảnh tư liệu.

Người viết: “Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu của Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”; “Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau”.

Bác Hồ - người luôn luôn đề cao, trân trọng và quan tâm đặc biệt đến những người con đã cống hiến tuổi xuân, sức trẻ và cả cuộc đời cho Tổ quốc, cho cách mạng với một tấm lòng nhân ái bao la. Người thấu hiểu những nỗi đau và thiệt thòi mà mỗi con người Việt Nam phải trải qua khi đất nước bị chìm trong chiến tranh xâm lược. Người luôn nâng niu, quý trọng từng sinh mệnh trực tiếp xông pha trên các chiến trường khốc liệt. Trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, ở cương vị Chủ tịch nước và Tổng tư lệnh của quân và dân Việt Nam, Bác luôn luôn chỉ đạo các tướng lĩnh tìm mọi cách tránh tổn hao xương máu, công sức, tránh tổn thất cho quân và dân. Khi Mỹ dùng thủy lôi phong tỏa cảng sông, cảng biển của ta, biết tin ở Bến Thủy các chiến sĩ của ta dũng cảm lái ca nô chạy qua bãi thủy lôi để tiêu diệt thủy lôi, rất nguy hiểm đến tính mạng, Bác gặp cán bộ có trách nhiệm căn dặn: “Ta đánh địch ta thừa dũng cảm, nhưng phải tiết kiệm xương máu, các chú tìm phương pháp để điều khiển ca nô tự động không người lái chạy qua bãi thủy lôi, chứ dùng người lái thì quá nguy hiểm”. Ngay sau khi thấm thía lời căn dặn của Người, chương trình ca nô tự động điều khiển mang tên T.5 đã được cán bộ và chiến sĩ ở Bến Thủy triển khai có hiệu quả(1). Sau mỗi trận đánh, Người bao giờ cũng quan tâm đến tổn thất của quân ta trước khi nắm thông tin về thiệt hại, thất bại của quân địch. Người đau lòng khi một chiến sĩ của đất nước phải ra đi, một chiến sĩ phải bỏ lại một phần cơ thể nơi chiến trường. Viết thư cho bác sĩ Vũ Đình Tụng khi nghe tin con trai của ông đã hy sinh, Người đã thể hiện sự đồng cảm đến tột cùng của mình: “Tôi được báo cáo rằng: con trai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái, nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột…”(2). Một lần, có đồng chí vào báo cáo Bác tình hình chiến sự miền Nam, về trận đánh lớn ta tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, đồng chí hết lời ca ngợi trận đánh rất đẹp, Bác với vẻ suy nghĩ và hỏi: “Chú hiểu thế nào là trận đánh đẹp”(3). Chúng ta hiểu Bác không bằng lòng với việc gọi một trận đánh tiêu diệt được nhiều sinh lực địch là một trận đánh đẹp vì như thế là không nhân văn, hơn nữa. Người biết địch bị tiêu diệt nhiều thì trận đánh đó cũng rất ác liệt, quân ta cũng thiệt hại không nhỏ, cũng có những chiến sĩ phải hy sinh, vĩnh viễn nằm lại với đất mẹ bao dung.

Để phần nào giảm nhẹ nỗi đau và sự mất mát của gia đình các thương binh, liệt sĩ, Bác luôn quan tâm đến những người thân của thương binh, liệt sĩ, đồng thời nhắc nhở mọi người phải quan tâm, động viên và chăm sóc họ. Khi được biết bố đẻ liệt sĩ Lý Tự Trọng ra Hà Nội, Bác cho mời vào. Trong không khí hàn huyên của thủa hàn vi (thời kỳ Bác hoạt động ở Thái Lan thường đến nhà ông), Bác mời ăn những món ăn xưa để nhắc lúc nào cũng nhớ về nhau như đôi bạn tri kỷ. Hồi ở chiến khu, Bác tiếp anh hùng La Văn Cầu, khi anh qua một trận chiến đấu rất anh dũng. Bác mời anh ở lại ăn cơm cùng Bác và lưu anh Cầu ngủ lại qua đêm. Bác xem anh như con đẻ. Đối với những người đã bỏ lại chiến trường một phần cơ thể, những người đã mất đi một phần sức lực, Bác không những thể hiện sự cảm thông sâu sắc, sự chăm sóc tận tình, chu đáo khi có điều kiện về thời gian mà còn luôn động viên họ nêu cao ý chí, tự tin vượt qua hoàn cảnh khắc nghiệt. Tết năm 1956, đến thăm trường thương binh hỏng mắt, Bác vui vẻ nói chuyện, rất khen ngợi tinh thần khắc phục khó khăn, bệnh tật, luôn cố gắng phấn đấu vươn lên. Bác động viên: “Các chú được học chữ, học nghề sau này phục vụ nhân dân được tốt hơn, như vậy các chú ‘tàn nhưng không phế’”. Bác luôn nhắc nhở, căn dặn chính quyền địa phương phải quan tâm trước hết đến những gia đình có người thân chiến đấu xa nhà bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Đầu năm mới Bác lên Vĩnh Phú thăm và chúc tết. Bác chưa đến những nơi mà các đồng chí lãnh đạo tỉnh bố trí trước mà đến thăm một gia đình của một đồng chí đang chiến đấu ở miền Nam. Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe gia đình, việc học hành của các cháu và sự quan tâm của địa phương ra sao. Chị chủ nhà nói những điều có thật, khác xa với sự báo cáo của địa phương. Nghe như vậy, Bác không vui, Bác phê bình thế là không tốt với dân, lừa dối cấp trên.

Trong kháng chiến, Bác cùng chịu đựng gian khổ, giá lạnh như người chiến sĩ. Bác không để lại gì cho riêng mình mà lo cho chiến sĩ trước. Bác là người khởi xướng phong trào “mùa đông binh sĩ”, vận động nhân dân không những lo cái ăn mà còn lo cái mặc cho chiến sĩ. Ở hậu phương, ai có thành tích lo cho chiến sĩ mặc ấm đều được Bác gửi thư khen ngợi(4). Bằng tình cảm nhân ái bao la và sự nâng niu, trân trọng những cống hiến, hy sinh của họ cho sự nghiệp cách mạng, bằng cách ứng xử thấm đẫm chất nhân văn và những lời dạy hết sức sâu sắc, tâm huyết, Bác Hồ đã khắc sâu vào tâm khảm và suy nghĩ của mỗi người dân về tình cảm, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ đối với công tác đền ơn đáp nghĩa, trong đó đặc biệt là vai trò của những chủ thể trực tiếp thực hiện các chính sách đối với những người có công. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho dân tộc Việt Nam, Người vẫn luôn băn khoăn, trăn trở đối với công tác đền ơn đáp nghĩa và căn dặn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể cần phải làm tốt hơn nữa công việc này và xem đây là công việc trọng yếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn phải có một chính sách đặc biệt, cụ thể, thiết thực đối với mọi tầng lớp nhân dân đã vì Tổ quốc mà hy sinh. Theo Người, đó là công việc nhất thiết phải làm, dẫu khó khăn, phức tạp đến mấy cũng phải ra sức làm. Người dạy: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, chúng ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, phải mở những lớp dạy nghề thích hợp cho họ, để họ có được hành trang cần thiết bước vào cuộc sống tự lập, tự lực cánh sinh...

Đối với liệt sĩ, cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm...

Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh liệt sĩ thiếu sức lao động và túng thiếu thì phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp...

Đối với phụ nữ, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ..., bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên...”.

Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm liên tục đã ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ngay cả đối với những người Việt Nam lầm lỡ, trước đây làm việc cho chế độ cũ hoặc không lương thiện trong chế độ xã hội cũ, Bác chỉ gọi họ là “nạn nhân của chế độ xã hội cũ” và nhắc nhở phải quan tâm đến họ, hướng thiện và hướng nghiệp cho họ theo tinh thần “đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”: “Nhà nước phải vừa dùng giáo dục vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở chúng ta không bỏ sót những đối tượng cần quan tâm thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, từ “những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình” (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong) đến gia đình của họ, từ nam giới cho đến phụ nữ, từ người già, người thiếu sức lao động cho đến thanh niên. Người căn dặn chúng ta rằng tất cả những con người đã cống hiến, hy sinh đều phải được quan tâm, động viên, giúp đỡ và hỗ trợ về cả mặt vật chất lẫn tinh thần và cái chính không chỉ giúp họ giảm bớt những nỗi mất mát thiệt thòi mà là tạo những điều kiện thuận lợi để họ vươn lên, khắc phục khó khăn, sống có ích, tiếp tục cống hiến cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Đó chính là phẩm chất nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam tất cả vì con người, vì nhân dân.

T.N.H  
(TCSH351/05-2018)

-------------------
(1), (3), (4) Dẫn theo: Hồ Chí Minh, chân dung đời thường”, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1997.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, 2000, tập 5, tr.40.  






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.