Bao giờ mới thật sự có công trình mang tên “nhà văn Việt Nam hiện đại”

14:56 16/10/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

Trong “Lời giới thiệu”, Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh đã nói rõ nguyên nhân dẫn đến một số thiếu sót của cuốn sách, chủ yếu là tư liệu về một số nhà văn không đầy đủ ( có khi do “tác giả đã lãng quên nhiều chi tiết” hoặc “chính tác giả chỉ muốn nói về  mình đến mức ấy…”); đồng thời ông “ao ước” công trình này, “có thể là một gợi ý cho một cái nhìn tổng quan hoặc góp phần làm nẩy sinh những công trình nghiên cứu văn học khác nữa…”
Trên tinh thần này, xin bỏ qua các thiếu sót về biên tập hoặc do chính các nhà văn không chu đáo trong việc cung cấp tư liệu…, để tập trung vào một số mặt có ý nghĩa hơn:

1. So với công trình cùng tên, cũng do HNVVN ấn hành 10 năm trước (năm 1997), thì lần xuất bản này đầy đủ hơn về số lượng nhà văn (1155/ 786) và nhiều chân dung nhà văn (gồm ảnh, tiểu sử, quá trình công tác, sáng tác, những tác phẩm chính, các tặng thưởng và quan niệm về nghề văn) cũng được tu chỉnh hoặc chọn lọc hơn. Như vậy, nếu “khoanh vùng” trong phạm vi các nhà văn là hội viên HNVVN, thì công trình xuất bản lần này rất có ích cho các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến văn học nước nhà. Tuy vậy, ở một số tác giả có quá trình “phức tạp” (như Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt…) bạn đọc không thể thoả mãn với cách lược ghi, đại thể như với Phùng Quán, “quá trình học tập, công tác, sáng tác” chỉ vẻn vẹn một dòng: “Tham gia quân đội trong thời kỳ chống Pháp, sau chuyển sang làm công tác văn hoá”. Đã đành, đây là một sự chọn lựa khó khăn của Ban biên tập, nhưng vụ “Nhân văn” đã qua nửa thế kỷ (thời gian cho phép “giải mật” nhiều loại hồ sơ…), một số tác giả lại vừa được tặng “Giải thưởng Nhà nước”, thiết nghĩ Ban chấp hành HNVVN không nên tránh né một sự thật mà thiên hạ đều đã biết.

2. Trên 350 nhà văn được bổ sung trong lần in này, đương nhiên hầu hết là những nhà văn được kết nạp trong 10 năm qua. Vấn đề chính là ở những “biệt lệ” - một số ít nhà văn được bổ sung, tuy không phải là “hội viên”. Trong phần “Các nhà văn mất trước khi thành lập Hội”, bổ sung thêm nhà văn Vũ BằngLan Khai. (Thực ra, xếp Vũ Bằng vào phần này là một sự khiên cưỡng, vì ông mất năm 1984 mà HNVVN thành lập năm 1957!). Phần tiếp theo “Các nhà văn chưa hội viên hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ”, bổ sung thêm nhà thơ Ngô Kha. Trước hết, cần ghi nhận thiện ý của Ban biên tập đã bước đầu có sự nhìn nhận, đánh giá lại cống hiến của các nhà văn không (hoặc chưa) phải là hội viên HNVVN. Thực ra, danh hiệu “hội viên” chưa phải là căn cứ duy nhất để đánh giá, xếp loại nhà văn. Dễ thấy hơn cả là trường hợp nhà văn khá nổi tiếng Nguyễn Mạnh Tuấn đã không có mặt trong cuốn sách này, chỉ đơn giản là vì anh đã xin ra khỏi HNVVN, mà theo tôi được biết thì vì anh “không thích”, chứ không  phải vì bất mãn hay “bất đồng chính kiến”. (Một số ít nhà văn từng có tên trong lần xuất bản trước, nay “vắng mặt” thì lại vì những lý do ngoài văn chương).

Như vậy, vấn đề đặt ra là: Những nhà văn không (hoặc chưa) phải là hội viên HVNVN, được bổ sung dựa theo tiêu chí nào? Cuốn sách ghi tên “tác giả” là “Ban chấp hành HVNVN”, như thế “tiêu chí” do “mục đích, tôn chỉ…” của “tác giả” định ra. Có thể dễ dàng thấy rõ một tiêu chí quan trọng là các nhà văn phải tham gia cách mạng và kháng chiến. Nếu quả vậy, đã đưa Vũ Bằng (mất 1984) vào sách, vì sao không đưa Hồ Chí Minh, Sóng Hồng vào? Chúng ta đều biết, hai tác giả này (và một số đồng chí khác nữa như Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ) đã được đưa vào nhiều bộ từ điển văn học xuất bản trước đây. Ngay trong cuốn “Từ điển tác giả văn học Việt thế kỷ XX" do Trần Mạnh Thường biên soạn (NXB Hội Nhà văn 2003), cũng đã dành nhiều trang cho các tác giả vừa nêu. Bạn đọc cũng không hiểu vì sao lại chưa thấy Hồ Vi (tác giả “Lời quê” đã in trong “Tuyển tập thơ kháng chiến”) và Quỳnh Dao (tức Đinh Nho Diệm, tác giả tập “Tơ trăng”, trong đó có 2 câu nhiều người thuộc, từng được trích dẫn trong “Thi nhân Việt Nam”: “…Một hàng Tôn Nữ cười trong nón / Sông mở lòng ra đón bóng yêu…” Hai nhà thơ này đều mất trong kháng chiến chống Pháp. Theo Phùng Quán (Xem bài “Nhà tiên tri tầm cỡ đại đội” trong “Ba phút sự thật” - NXB Văn nghệ, 2005), thì Hồ Vi mất do vấp phải mìn trên đường đi ở Quảng Trị còn Quỳnh Dao, sau khi Tạp chí Đông Tây bị Sở Liêm phóng Pháp đình bản, đã đem vợ con về quê hoạt động trong phong trào phản đế cứu quốc ở miền Trung cho đến cách mạng tháng Tám. (Theo “Văn phẩm Quỳnh Dao” của Anh Chi, NXB Thanh Niên 1999). Nếu tôi không lầm thì hai ông không được công nhận liệt sĩ (vì không phải hy sinh khi đánh giặc), nhưng việc tham gia cách mạng và kháng chiến của hai ông là rất rõ ràng. Chẳng lẽ, “tiêu chí” để công nhận ai được đưa vào sách NVVNHĐ lại áp dụng tiêu chuẩn cấp bằng “Tổ quốc ghi công”?... Và cuốn sách còn để sót những ai nữa?...

3. Điều quan trọng hơn là cuốn sách đã mang một cái tên không xứng hợp. Vì rõ ràng là khiếm khuyết, khi cuốn sách mang tên “NVVNHĐ” mà lại không có Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh,… và rất nhiều nhà văn khác đã từng được khẳng định vị trí trong các bộ từ điển về văn học xuất bản trong những năm gần đây. Đó là chưa nói đến các nhà văn sống và viết ở miền Nam trước 1975, trong đó có một số tên tuổi gần đây đã được báo chí và Nhà xuất bản trong nước giới thiệu như Nguyễn Mộng Giác, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu…
Như vậy, một là chọn cách làm “an toàn”, tránh điều ra tiếng vào, chỉ đóng khung trong phạm vi “Hội viên HNVVN”; còn nếu đã là một công trình nghiên cứu về “NVVNHĐ” và “với lòng mong mỏi được trở thành một tài liệu tham khảo cho tất cả những ai quan tâm tìm hiểu nền văn học Việt Nam hiện đại” (“Lời giới thiệu” của Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh”) thì không thể tránh né những vấn đề phức tạp do lịch sử để lại, phải thấy rõ khuynh hướng “mở rộng” như trên là tất yếu, đồng thời là một đòi hỏi chính đáng và cấp thiết của nhiều người, nhất là khi đất nước đã thống nhất hơn ba chục năm, đang mạnh mẽ hoà nhập vào thế giới, Đảng và Nhà nước thì luôn khẳng định lập trường hoà giải hòa hợp dân tộc.

Đã đành, trong điều kiện Việt hiện nay, việc đánh giá tác giả, tác phẩm văn học khó tránh được sự chi phối của ý thức hệ, nhưng chúng ta đều biết, văn học còn có những giá trị trường tồn, vượt qua ý thức hệ. (Đó là chưa nói đến bản thân “ý thức hệ”, theo đúng tinh thần cách mạng của C. Mác là không ngừng thay đổi và phát triển. Nếu ai không tin hoặc “sợ” nói đến điều này, xin cứ mở văn kiện Đại hội X so với đường lối của Đảng trước đây sẽ rõ). “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hay “Chí Phèo” của Nam Cao là những bằng chứng hiển nhiên rằng: Trong một chế độ phản tiến bộ, vẫn có nhà văn viết nên những tác phẩm có giá trị lâu bền. Đã đến lúc, cần phải đặt thẳng vấn đề: Chẳng lẽ suốt 20 năm (1955-1975), những sáng tác văn học ở miền đều là thứ “vứt đi”, không đáng đếm xỉa gì đến? Dù biết đây là vấn đề “nhạy cảm” và phải cân nhắc thận trọng, nhưng nhất thiết không thể né tránh vì chúng ta từng có những bài học đau đớn, do nhận thức ấu trĩ, đã có thời muốn “vứt đi” những di sản văn hoá tiền nhân để lại, muốn “vứt đi” cả những tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng!

Thực ra, vấn đề lớn hơn, hệ trọng hơn là chuyện của các nhà văn và tầm mức một cuốn sách. Chúng ta đều biết, do những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bọn “ngoại bang” đã bao phen muốn vĩnh viễn chia cắt đất nước ta, hoặc ít ra cũng làm cho Việt ta yếu hèn đi. Nay, với những hy sinh lớn lao của nhân dân ta mà không một phép tính nào đo đếm được, đất nước đã thu về một mối, đã thống nhất trên ba chục năm; không lẽ chúng ta vẫn cứ muốn tự “chia cắt”, tự “gạt bỏ” người này nhóm kia với một lý do chưa hẳn đã xác đáng, để tự làm nhỏ đất nước mình lại?
Vì vậy, có thể nói công trình nghiên cứu “NVVNHĐ” vẫn đang là một “món nợ” của các nhà nghiên cứu văn học, của hai cơ quan hàng năm được Nhà nước tài trợ thực hiện các đề tài nghiên cứu là HNVVN và Viện văn học Việt Nam… đối với bạn đọc yêu văn chương.
N.K.P

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬHoàng Ngọc Hiến là nhà giáo, nhà phê bình văn học, nhà triết luận văn hoá, nhà dịch thuật. Người ta đã biết nhiều về ông với tư cách nhà phê bình văn học mà ít biết về ông như nhà triết luận văn hoá. Về mặt này ông thể hiện một niềm trăn trở khôn nguôi đối với các vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại.

  • LTS: Tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường đã lập “hattrick” nhận liền ba giải thưởng trong năm 2010 (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nguyễn Du, Tặng thưởng công trình Văn học nghệ thuật xuất sắc của Hội LHVHNT TT Huế). Để giải đáp phần nào thắc mắc từ phía bạn đọc về tính chất “tự truyện” cũng như chuyện bếp núc của cuốn tiểu thuyết “gia đình” này, Sông Hương xin giới thiệu bài viết của chính tác giả cầm tinh con Mèo - nhà văn Nguyễn Khắc Phê.

  • PHẠM TẤN HẦUCó tập thơ chỉ là tập hợp những bài thơ. Nhưng Thi ca mùa ngái ngủ của Lê Huỳnh Lâm, dù là tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện một cái nhìn nhất quán về thế giới thi ca mình khám phá. Đó là thế giới được mở to trước những “cơn đau”, trước “nỗi kinh hoàng vây quanh trái đất”, “trong đền thờ quỷ ma” và trong ca “ngôi nhà không thần thánh”…

  • TRẦN VĂN SÁNG - NGUYỄN THỊ TỐ LOANKỷ niệm 100 năm Bác Hồ đi tìm đường cứu nước (1911 - 2011)

  • ĐỖ LAI THÚY      Thơ có tuổi và chiêm bao có tích                                  Hàn Mặc Tử

  • NGUYỄN HỒNG TRÂNNữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

  • TRƯỜNG KÝ(“Nụ cười Áp-xara”: Truyện ký của Hà Khánh Linh, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983)

  • PHẠM PHÚ PHONGChính cái bìa tập truyện ngắn là Sứ giả Việt Hùng do hoạ sĩ Đinh Khắc Thịnh trình bày đã gợi ý tưởng cho tôi viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần tập truyện ngắn gồm có chín truyện của Việt Hùng - chín truyện ngắn anh viết trong vòng hơn mười hai năm, kể từ khi tập truyện ngắn đầu tay Cô gái hoàng hôn (1997, cũng gồm có chín truyện ngắn), ra đời cho đến nay.

  • Ý THIỆNVào ngày 27, 28 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm - Huế đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Gia đình Phật Hoá Phổ - tổ chức tiền thân của Gia Đình Phật tử Việt Nam, với hơn 3000 đoàn sinh về tham dự. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp nhân dân thành phố Huế cũng như phật tử khắp nơi trên đất nước.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNguyễn Đức Tùng: Chào nhà thơ và cô giáo dạy văn Đinh Thị Như Thúy. Được biết chị đang sống và làm việc ở một huyện thuộc tỉnh Đắc Lắc. Chị có tìm thấy cho mình một quê hương ở đó không?

  • ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.

  • HỒ THẾ HÀKỷ niệm 8 năm ngày mất nhà thơ Tố Hữu (9-12-2002 - 9-12-2010)

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNTừ buổi trình làng tập thơ “Bông hồng ngủ quên”, tiếp theo là tập “Nhặt mùi hương trầm đâu đây”, cho đến bây giờ thi phẩm thứ ba của Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” vừa mới được Nxb Văn học cấp phép ấn hành tháng 7-2010.

  • THANH THẢO(Đọc “Bán đảo” của Thái Bá Lợi)

  • TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.

  • KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.

  • HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)

  • MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.

  • KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”

  • (Về cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế do Sông Hương tổ chức)BAN TỔ CHỨC CUỘC THINhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học và cao đẳng ở Huế.