Bâng khuâng chiều Kathmandu

09:03 26/08/2009
NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.

Kathmandu - Ảnh: rrinfosystems.com

Nếu chỉ nhìn trên bản đồ du lịch, người ta dễ có cảm tưởng Kathmandu đền chùa nhiều hơn nhà ở. Nơi đây hai tôn giáo lớn là Ấn Độ giáo và Phật giáo cùng song song tồn tại qua hằng ngàn năm. Cùng góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Nepal. Và bằng cách riêng của mình, cùng tưới lên đời sống Nepal suối nguồn đạo hạnh và đức tin. Nepal tự hào là quê hương đã sinh ra Phật Thích Ca (Lâm Tì Ni thuộc Nepal). Từ thế kỷ thứ III trước CN, đất nước nầy đã là một trong những quốc gia Phật giáo. Trong vô số những đền chùa, bảo tháp ở Kathmandu, các công trình sau nổi tiếng hơn cả: Pashupatinath, Bouddhanath, Swayambhunath, Basantapur.

Swayambhunath với bảo tháp hình tròn đường kính 20m, cao 10m, nằm trên một ngọn đồi phía tây thành phố. Dân địa phương gọi là “Chùa khỉ”, bởi đây là trú xứ của mấy vị hậu duệ Tôn Ngộ Không. Nếu không để đảnh lễ chư Phật, quay bánh xe Mani nguyện cầu những điều gan ruột, và ngắm toàn cảnh thành phố, chắc không ai màng lên đây. Bởi du khách phải leo những 324 bậc cấp mới đến được.


(Hoả táng người chết bên bờ sông Bagmati - Ảnh: celebratebig.com)


Pashupatinath là khu đền Ấn giáo, nằm bên bờ sông Bagmati mà những ngày đầu tháng hai nước cạn khô chỉ còn như một dòng suối. Tại đây người ta tiến hành các nghi lễ hoả táng người chết. Những khuôn mặt sùng kính, tiếng cầu kinh, mùi hương trầm, mùi sáp chảy, mùi thịt cháy, tiếng cồng chiêng rền vang, và những đôi mắt sững sờ của du khách phương Tây, tất cả tạo nên cái cảm giác lạ lùng không nơi nào có được. Bouddhanath là ngôi chùa Tây Tạng. Rất dễ nhận ra bởi bảo tháp hình tròn, bánh xe Mani và rợp trời 5 màu phướng cầu nguyện. Mấy ông sư Tây Tạng cao lớn, đỏ da thắm thịt, khác với đồng bào trên quê hương họ mà tôi có duyên gặp mùa thu năm ngoái. Basantapur nằm bên cạnh quảng trường trung tâm thành phố. Đây là một quần thể đền tháp Ấn giáo và các công trình ngày trước là cung điện với mái ngói trầm tối, lúc nào cũng đông nghịt du khách. Tất cả những đền đài, chùa tháp, cung điện nguy nga tráng lệ hàng ngàn năm tuổi đời ấy đều bằng gỗ, với nghệ thuật chạm trổ khéo léo, tinh vi, kỳ tuyệt đến mức người ta ngờ rằng đó chỉ có thể là công phu của các vị thần. Nghệ thuật ấy chi phối toàn bộ các công trình đô thị khác của thành phố. Ngày nay, Kathmandu đã có vài dấu hiệu thay đổi, hiện đại hơn, văn minh hơn, nhưng tựu trung cái hồn của nó thì vẫn còn nguyên - vẫn là thành phố của nghìn thu cũ xa xôi. Nói thế không phải để chê mà chính là để tỏ lòng kính trọng một dân tộc biết gìn giữ nền văn hoá đặc sắc của mình một cách trọn vẹn.

Có thể thưởng thức âm hưởng tuyệt vời ấy dưới một dạng còn nguyên hơn ở một số thành phố khác trong thung lũng. Ví dụ: Patan. Là thành phố nằm ở phía tây sông Bagmati, được mệnh danh là “thành phố của ngàn nóc đền vàng”, là trú xứ của các nghệ nhân. Tại đây còn lại một số công trình được xây dựng từ thời vua Adục. Ai đã từng lang thang qua Durbar Square và Art Museum chắc sẽ không bao giờ có thể quên được chốn nầy. Bhaktapur là thành phố cổ nổi tiếng với những kiệt tác bằng gỗ chạm khắc. Bhaktapur có nghĩa là thành phố sùng đạo (Bhakta là người sùng đạo, Pur là thành phố). Hầu hết dân Kathmandu đều gốc người Newar. Các nhà sử học cho rằng thuở xa xưa, họ có thể đến từ Gujarat, miền Tây Ấn độ. Họ có ngôn ngữ riêng, và là tác giả của hầu hết các công trình nghệ thuật và tôn giáo tại thung lũng nầy. 90% dân Bhaktapur là tộc người Newar. Kirtipur nằm ở tận cùng đông nam thung lũng, trải mình trên các sườn đồi. Không nhiều du khách đến đây. Thành phố lặng lẽ tiếp tục sống với quá khứ vàng son của mình. Tôi may mắn được đi nhiều nơi, từng tiếp cận nhiều nền văn minh cổ cũng như hiện đại, từng rung động trước các công trình nghệ thuật tuyệt tác, nhưng so với các công trình nghệ thuật ở đây thì chỉ có thể nói... chẳng còn chi nói nữa. E.V.Powell, nhà Đông phương học lỗi lạc đã nhận xét thế nầy về Kathmandu: “Tại thung lũng đáng nhớ nầy, nghệ thuật, tăng sĩ và thợ thủ công đã cùng nhau làm nên một công trình tuyệt tác. Những kiến trúc sư tài ba của Phật giáo và Ấn độ giáo đã gặp gỡ trong việc tạo nên vẻ nguy nga tráng lệ của những đền đài, tượng đá với chạm khắc vô cùng tinh xảo đến từng chi tiết mà không nơi nào có thể sánh kịp”.


(Thung lũng Kathmandu - Ảnh: cbmnepal.org)


Thung lũng Kathmandu được bao bọc bởi rặng Hy mã Lạp sơn hùng vĩ phía đông bắc, ba bề còn lại núi non ngất trời. Theo truyền thuyết, thuở xa xưa thung lũng là một hồ nước mênh mông, về sau cạn đi do thần Manjushri mài gươm. Còn các nhà địa chất thì cho rằng sau một trận động đất ghê gớm, bờ của hồ bị vỡ, nước rút hết để lại thung lũng Kathmandu ngày nay. Trong thung lũng, bốn thành phố Patan, Bhaktapur, Kirtipur và Kathmandu đều có vị trí ngang nhau. Chỉ khi quốc vương Prithvi Narayan Shah thống nhất Nepal năm 1768, Kathmandu mới được chọn là trung tâm chính trị và tôn giáo của cả nước. Năm 1846 quốc vương Shah bị các tướng lãnh đảo chánh lập nên triều đại Ranas. Năm 1951 Tribhuvan chiếm lại ngôi vua và thiết lập nên triều đại Shah. Hiện nay, cháu của Tribhuvan đứng đầu nền quân chủ cai trị theo hiến pháp. Chính phủ gồm một Thủ tướng, Nội các và một Nghị viện được bầu theo kỳ phiếu phổ thông. Kathmandu, 7 Di sản văn hoá thế giới, khoảng 1 triệu dân, ở độ cao 1.500 m, được xây dựng từ thế kỷ thứ 8, khí hậu lục địa, nhiệt độ trung bình trong năm thấp do ảnh hưởng của độ cao. Bên kia những khu nhà hiện đại chạy dọc theo New Road là trung tâm thành phố, quảng trường Durbar. Một con đường nhỏ chạy xiên qua trung tâm thành phố lên phía đông bắc về hướng Asantole. Ngày xưa đây là con đường các thương gia dùng để đi sang Tây Tạng. Kathmandu thật sự nằm trên những con đường xuất phát từ quảng trường. Ở mỗi ngã ba ngã bảy đều có các tượng Phật tượng Thần nghi ngút khói hương. Các con đường xưa trở nên quá nhỏ phải mang vác đủ thứ thập loại chúng sinh: Xe vừa, xe nhỏ, mô tô, xe đạp, xe kéo, xích lô - xích lô bên nầy gọi là Rickshaw, người đạp ngồi đàng trước; những người đàn ông Nepal với chiếc mũ Topis dáng núi trên đầu, những người đàn bà quấn mình trong chiếc váy Sari với tấm khăn đức hạnh to tướng, các cháu nhỏ lòn lách qua các đám đông cho kịp đến trường, cả đại đội người bán hàng lưu niệm, và đủ loại khách du lịch với vẻ mặt ngỡ ngàng đầy hứng thú... thi thoảng một vài con bò thơ thẩn giữa phố phường đông đúc như thử kiếp trước hắn ta là hoàng tử của vương triều. Lạ nhất là, tuy trần gian thế nhưng không hề có chuyện va quẹt, hậm hực, chửi rủa trên đường phố. Hình như đã có những qui ước riêng tồn tại hàng ngàn năm trên những con đường chật hẹp nầy, còn khách nước ngoài thì đã thích nghi ngay với nó từ trên những trang sách hướng dẫn du lịch. Dọc theo các con đường là những ngôi nhà gỗ hàng trăm năm tuổi đời mà ở tầng dưới không cách chi có thể nhận ra dấu thời gian, chỉ vì người ta treo kín đủ thứ hàng hoá đặc sản đến loá mắt. Hàng hoá ở đây rẻ như bèo. Rẻ đến mức du khách rời Kathmandu chẳng mấy ai còn một xu dính túi. Tôi mua về tặng vợ và con gái mấy xâu chuỗi ngọc thạch mà phải nói láo giá gấp mười lần hơn để đảm bảo giá trị món quà. Từ tầng hai trở lên người ta dễ dàng nhận ra những cánh cửa sổ bằng gỗ được chạm khắc tuyệt vời. Nhiều ô cửa nghiêng nghiêng chìa ra mặt đường, ở đó mấy cô gái nhìn trời mộng mơ, cười vui bình luận cảnh chúng sinh xuôi ngược. Không hề có chuyện con trai con gái đu đưa, hôn hít nhau trên đường phố. Một vài thanh niên nước ngoài quần bò thủng gối, con gái hở bụng hở lưng trông chẳng giống ai và trẽn dễ sợ. Bên sau các dãy nhà mặt tiền bán buôn chộn rộn là những khu vườn tĩnh lặng, chúng thông thiên với nhau. Hình như đó mới là thế giới thực sự của cư dân Kathmandu.


(Lễ Hội Shiva Ratri - Ảnh: asianart.com)


Nepal là một trong ít nước có nhiều lễ hội nhất thế giới. Có tới 120 ngày lễ trong một năm. Gần như ngày nào Kathmandu cũng tràn đầy âm thanh của một ngày lễ. Lễ Diwali với hàng nghìn ngọn nến, lễ Dasaim với sự hiến sinh, lễ Holi và hàng chục lễ khác. Hôm tôi đến, Kathmandu lễ Shiva Ratri. Dọc hai bên đường, hàng ngàn vạn người sắp hàng một nghiêm trang bước về phía các ngôi đền. Hầu hết đều đàn bà con gái. Ở Nepal phụ nữ ít khi ra đường. Chỉ các ngày lễ họ mới có dịp phô cái nhan sắc của mình dưới ánh mặt trời - rực rỡ đến mức làm đôi gò má họ hồng lên như các diễn viên tuồng. Và cứ thế, họ lặng lẽ đi, không nôn nao, không chen lấn. Đôi mắt họ toát lên vẻ thành kính, thanh thoát và đạo hạnh. Tôi không biết nếu trong tâm hồn họ còn vương một chút tội lỗi, thì họ đã dấu nó ở đâu. Trông họ cứ làm tôi nghĩ về những cô gái trên đường phố Lhasa. Mong sao đôi mắt ấy đừng bao giờ ánh lên trước những đồng đô la xanh đỏ. Chỉ qua các ngày lễ hội, người ta mới có thể thấy được một cách tổng quát đời sống nội tâm của con người Nepal vốn bị ẩn dấu sau cái vẻ lặng im của dáng núi.

Kathmandu cũng có nạn kẹt xe kinh khủng, nhưng kẹt thì kẹt, họ cứ vẫn bình thản, thinh lặng, hoặc chuyện trò nho nhỏ như ở phòng khách sau bữa cơm chiều dù trong những chiếc xe sang trọng có máy lạnh hay trên những chiếc xe cà tàng. Trong nhiều tình huống ngặt nghèo, tôi thấy dân Kathmandu không hề nổi đoá, văng tục chửi thề. Có được cái tâm an nhiên tự tại ấy không biết là do đạo nguồn Phật pháp hay do tích luỹ được từ dưới bóng dãy tuyết sơn.

Khí hậu mát lành, không gian kinh kệ và từ nhỏ được tắm mình trong các lễ nghi tôn giáo khiến họ trở thành người chất phát, hiếu hoà. Với những người đàn ông, khuôn mặt có hơi đen điu xấu trai một chút nhưng tao nhã, tốt bụng, chân thật và nụ cười trên môi - chỉ bán buôn mới nói thách một cây. Nét tính cách nổi bật ở họ là rất bền chí. Khi một anh chàng bán hàng lưu niệm mời bạn mua cái gì, bạn đừng hòng từ chối. Không phải kiểu đeo bám thô thiển làm bực mình mà cả một nghệ thuật sống, cho đến khi bạn đổi ý vui vẻ chịu mua món hàng như dịp may hiếm có. Một người dân địa phương nói với tôi “Có những chàng trai sẵn sàng bỏ ra ba chục năm để cua cho được một cô gái về làm vợ”. Chao ơi, hèn chi nhiều ông chồng đen điu xấu xí đi bên cạnh bà vợ xinh đẹp như hoa. Người Việt Nam mình có câu “Nhất lì nhì đẹp trai”. Nguyên tắc đó với Nepal đúng một trăm phần trăm. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là con gái ở đây rất đẹp. Rõ ràng có sự đột biến giữa thế hệ bố mẹ và con cái. Mấy cô gái Kathmandu ngày nay da trắng như Tây, má hồng như Lhasa, kiêu sa như quí tộc Ấn Độ, chỉ đôi mắt không giống ai - nó là cái thần của đạo pháp, cái tĩnh tại của núi, cái tinh khôi của tuyết cộng lại. Nhiều cô trông thanh thoát và đẹp như một cành hoa vô ưu. Cũng như Ấn Độ, phụ nữ Nepal mỗi khi ra đường, con gái chấm nốt son đỏ giữa hai chân mày gọi là làm duyên (không thế cũng duyên rồi), còn phụ nữ có chồng thì kẻ vạch son từ chân tóc dọc theo đường ngôi, như một lời khẳng định “tôi có chồng rồi và tôi rất yêu chồng tôi”. Không biết có bao nhiêu phần trăm sự thật trong lời thú nhận ấy. Bởi phụ nữ thì đời nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy, tuy hết dạ thương chồng nhưng nếu có chàng trai nào chết mê chết mệt vì mình thì cũng sướng.



(Đền Swayambunath - Ảnh: icikm-2008.com.np)


Vào những ngày đẹp trời, từ trên ngọn đồi phía tây nơi có đền Swayambunath với đôi mắt Phật luôn mở to như để canh giữ thành phố. Kathmandu trải dài trước mắt bạn với muôn hồng nghìn tía: Màu xanh của cỏ cây, màu trầm tối của những mái ngói, màu vàng của những luống hoa moutarde, màu đỏ của những ngôi nhà gạch... và lấp lánh ánh dương hồng. Bức tranh ấy nổi hẳn lên giữa nền tuyết trắng của dãy Hy mã Lạp sơn. Thiên nhiên Nepal độc đáo và đẹp lạ lùng chực hút hồn những ai có duyên đến. Hình như hoa lá không nhiều vì lạnh. Còn chim chóc thì ngất trời. Bên mình năm thì mười hoạ mới thấy con quạ. Hễ thấy quạ là sợ thất náy, bởi quạ báo hiệu điều chẳng lành. Bên nầy ngược lại, quạ biểu hiện sự may mắn. Cũng có bồ câu, nhưng bồ câu chịu lép vế chỉ tập trung quanh Basantapur, còn quạ thì khắp nơi. Nó trở thành con vật gần gũi, thân thiết của mọi người; nó hiền như ma xơ và cần mẫn như bác nông phu. Hồi sang Nhật tôi thấy ở Tokyo cũng có nhiều quạ, nhất là ở các công viên. Vào Ueno Park, tha thẩn dưới những vòm cây anh đào nghe tiếng quạ kêu khắp trời - mỗi lần nhớ lại, thấy đó cũng là một kỷ niệm hay hay. Hoá ra, không phải đen, không phải trắng, mà cái tâm của anh thuộc về đen hay trắng. Buổi chiều ngồi trên sân thượng nhà hàng Helena’s ngắm hoàng hôn vẫy chào thành phố. Kathmandu, không toà nhà nào cao quá 7 tầng. Đàn quạ, sau một ngày gắn bó với trần gian, chiều đến chúng rủ nhau thăng thiên, cao thiệt là cao, rồi bắt đầu vũ khúc kỳ lạ, hàng trăm ngàn con quay cuồng múa liệng. Vòng luân vũ ấy cao dần, cao dần và dạt về phía đàng đông cho đến khi mất hút cuối chân trời. Đêm nay chắc chúng ngủ trên các vì sao. Quạ mà thanh cao là thế thì đâu phải chuyện đùa. Cùng với các công trình nghệ thuật, giai điệu, con người... núi và tuyết sơn cũng là thứ ngôn ngữ của bài thơ Nepal. Khắp nơi trong thành phố đều có văn phòng tiếp thị các Tour leo núi: Hoặc chiêm ngắm dãy tuyết sơn, hoặc chinh phục đỉnh Everest. Nhiều chàng trai cô gái trẻ trung từ bốn phương náo nức đổ về Kathmandu tham gia cuộc thử thách dù biết rằng không dễ gì tới được đỉnh. Không phải trẻ thì tham gia được nhưng muốn tham gia được thì phải trẻ. Tôi qua rồi cái tuổi có thể chinh phục các đỉnh cao. Vả lại tôi không thích khái niệm “chinh phục”. Tôi chọn Tour chiêm ngắm dãy núi tuyết. Về phía Dhulikhel, ngay dưới chân Hy mã Lạp sơn, trên các đỉnh núi cao khoảng 2.000 m, có những ngôi biệt thự dành cho loại du khách thích đắm mình trong không gian cô tịch. Bình minh, mặt trời thắp sáng dãy tuyết sơn. Thế rồi bức tranh kỳ tuyệt ấy biến hoá theo từng mỗi khoảnh khắc. Đẹp đến sững sờ. Sau một tuần ở đây, tôi có thể đọc tên từng đỉnh tuyết sơn: Daulagiri, Annapurna, manaslu, Ganesh Hima, Langtang, Gaurishankar, Cho Oyu, Everest, Lhotse, Makalu... Buổi chiều, lang lang theo những con đường mòn trong núi. Đó đây mấy khóm Full vàng rực gợi nhớ hoàng mai quê nhà. Những đoá Lali màu hồng sẫm đong đưa trên cành, đẹp như nàng công chúa trong truyện cổ tích. Trước khi rời Kathmandu, tôi còn kịp theo Tour Moutain flight bay một vòng quanh dãy tuyết sơn và ngắm ngọn Everest từ trên cao. Biết cách nhìn và biết chiêm ngắm nó bằng cái “tâm vô phân biệt” giúp ta ngộ ra được nhiều điều. Kết thúc chuyến bay, người ta cấp cho mỗi du khách tấm văn bằng có dòng chữ xác nhận: “Tôi không chinh phục Everest mà chỉ mở lòng ra đón nhận nó với tất cả tâm hồn”. Cám ơn ai đã có ý tưởng tuyệt vời.

Thế đấy, thiên nhiên Nepal không chỉ chực bỏ bùa du khách mà còn là hương liệu của cuộc sống nơi nầy. Nền văn hoá Nepal mang đậm dấu ấn của tâm thức núi: Các đền thờ nhiều tầng với chóp cao vút nằm rải rác trong thung lũng. Lá quốc kỳ duy nhất trên thế giới hình 2 đỉnh núi có răng cưa ở bên. Dân Nepal với cái nhìn xa vắng và sâu thẳm. Các kiểu mũ có chóp nhọn dáng núi. Những hàng hoá chất theo hình tháp ở chợ hay trong các siêu thị. Giọng nói lên xuống, trầm bổng của ngôn ngữ Nepal. Âm nhạc với chiếc đàn Sarangi hai dây mang âm hưởng của núi đồi sương phủ... Tất cả đều lấy cảm xúc từ rừng núi tuyết sơn.

Dân Nepal rất coi trọng giáo dục. Mức sống không cao, đồng lương cực thấp, nhưng con cái họ đến trường thì oách hết chê. Từ cấp một, học sinh đã mặc đồng phục, dày vớ hẳn hoi và thắt cà vạt ngon lành. Không phải chỉ thành phố mà cả những vùng quê xa xôi hẻo lánh cũng thế. Hôm đến thăm Bhaktapur, ngồi dưới mái hiên nhà hàng Temple Town nhâm nhi cốc cà phê đợi Bảo tàng Trung tâm mở cửa; mấy chú nhóc trường bên tranh thủ giờ nghỉ ra quảng trường đá bóng. Cái cảnh hàng chục học sinh tiểu học chân dày, áo trong quần, vét tông cà vạt, chạy nhảy reo hò tranh nhau quả bóng nhỏ như trái bưởi, trông lạ lùng và đáng yêu làm sao. Không biết các chú có biết quê hương các chú đang có chiến tranh, và những gì đang chờ đợi các chú! Ý nghĩ ấy làm tim tôi thắt lại. Ôi, một dân tộc biết coi trọng cái học, lễ nhạc, tôn giáo đến thế sẽ nguy khốn biết chừng nào giữa thời đại mà bạo quyền thay cho công lý, tiền tài thay cho nhân nghĩa, thù hận thay cho bao dung, chiến tranh thay cho hoà bình... Vậy mà đó là sự thật: Nepal đang trong tình trạng chiến tranh. Người ta có thể ngửi thấy mùi của nó từ các nút chặn trên đường vào thành phố; từ toán lính trận áo quần rằn ri, tay lăm lăm tiểu liên tuần tiễu ngày đêm dọc theo các con đường lúc nào cũng đầy nhóc du khách. Người ta bảo đó là cuộc nội chiến giữa một bên phe bảo hoàng, bên kia phe du kích Mao-Ít. Một bài học lịch sử dành cho những quốc gia nho nhỏ: Hễ sau nội chiến tất sẽ đến ngoại xâm. Ai cũng biết thế nhưng không ai chịu nương tay. Hình như người Nepal sinh ra không phải để cầm súng. Dưới bóng của dãy tuyết sơn, họ coi sự phóng khoáng và bao dung trọng hơn tất cả. Nhìn anh chàng chiến binh áo quần rằn ri, tay cầm súng, mặt mày phúc hậu, thơ ngây trông hài hước đến quặn lòng. Hiện nay, chiến tranh chỉ mới ở giai đoạn du kích và ám sát quan chức cấp cao. Không biết khi mồi lửa của nó bùng lên đến mức không thể kiểm soát được thì chuyện gì sẽ xảy ra! Những công trình nghệ thuật bằng gỗ hàng ngàn năm, những thành phố cổ kính quyến rũ, giai điệu sâu thẳm tâm linh giúp nhân loại khám phá ra các giá trị tinh thần khác, trẻ em đến trường trong bộ đồng phục đẹp như tiên đồng ngọc nữ... và hàng chục Di sản văn hoá thế giới. Liệu có còn không!

Tôi dành buổi chiều cuối cùng lang thang qua các nẻo đường Kathmandu như một lời tạ từ. Đó là cách của riêng tôi mỗi lần phải chia tay những thành phố mà tôi có duyên dừng bước lãng du dăm ba ngày. Nhưng không hiểu sao với Kathmandu, tôi cứ thấy nao nao trong dạ, y như khi chia tay một người bạn mà mình biết sẽ không bao giờ còn găp lại. Mong sao đó chỉ là cảm tưởng vu vơ của một tâm hồn đa cảm. Mong sao cuộc chiến tranh vô lý kia sớm lụi tàn. Mong sao Kathmandu mãi mãi là “một mảnh thời gian của những năm tháng đã qua”.

Huế, 30/3/2004
N.V.D
(185/07-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Biêlôruxia - Nước cộng hòa Xô-viết phía Tây với dân số 10 triệu người. Đất nước của hàng trăm nghìn con sông, hồ lớn nhỏ, nông sâu. NHÊ MAN là một trong những dòng sông lớn nhất của nước Cộng hòa Biêlôruxia. Con sông đã có bao nhiêu huyền thoại và nhiều bài hát về nó. Xuất phát từ Biêlôruxia "NHÊ MAN" trải dài theo lãnh thổ của nước cộng hòa rồi chảy ra biển Ban Tích.

  • YURI KUDIVOV

    Tủ sách của tòa soạn báo "Thời mới" chúng tôi vừa nhận được một tác phẩm của PETER WRIGHT "THE SPY CATCHER"(Người bắt gián điệp). Cuốn sách nầy đã bị tẩy chay khỏi Anh Quốc. Hơn thế nữa, chính quyền Anh đã ra lệnh săn lùng cuốn sách ấy.

  • LUIS SUARDIAZ

    Cách dây một phần tư thế kỷ, nhà văn Pê Ru, Mario Vargas Llosa (Mario Vacgác Luxa) đã khơi dậy lòng nhiệt tình của đọc giả và các nhà phê bình bằng tác phẩm lừng lẫy "Thành phố và bầy chó".

  • Lúc giải Nobel về văn học được trao tặng cho ông Iosif Brodsky, người đã sống ở Mỹ từ 15 năm vừa qua, báo chí phương Tây cho rằng như thế từ nay những tác phẩm của nhà thơ ấy sẽ không bao giờ được xuất bản ở nước Nga nữa. Thế nhưng chúng tôi được biết Tạp chí "Thế Giới Mới" sẽ xuất bản một vài tác phẩm của Iosif Brodsky trong một ngày gần đây. Thông tín viên Gennady Zhavoronkov đã phỏng vấn Oleg Chaukhautsev, trưởng bộ môn thơ của Tạp chí.

  • VIỄN PHƯƠNG

    Vào ngày 06/03/1927, tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Colombia, Gabriel García Márquez ra đời. Và 55 năm sau đó, tên của ông được xướng lên tại Viện Hàn Lâm Thụy Điển dành cho giải Nobel Văn học năm 1982.

  • LGT: Trong số các tên tuổi văn học đang được phục hồi triệt để ở Liên Xô, Mikhail Bulgakov (1891 - 1940) là một trong những nhà văn đang được quần chúng bạn đọc ái mộ nhất, có thể nói một tác giả "siêu thời thượng". Có người gọi Bulgakov là một "Gogol thế kỷ XX".

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Nhân chuyến bay ngang qua Nhật, gặp mùa hoa anh đào, tôi ghé vào Tokyo chơi một ngày. Trong quán ăn sushi thắp đèn lồng, tôi làm quen với một người bạn Nhật. Anh là giảng viên đại học ngành lịch sử, làm thêm nghề hướng dẫn du lịch. Nói chuyện về thiền và thơ haiku, anh kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị. Sau này, mỗi khi nhìn thấy hoa anh đào, tôi đều nhớ anh, mong có dịp trở lại chốn cũ.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Như chúng ta biết, vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị từ năm 1945, nhưng cho đến giữa thập niên 1950, mong muốn và tính toán cho việc đưa Hoàng thái tử Bảo Long lên ngôi chấp chính vẫn còn âm ỉ.

  • NINA BOREVSKAYA

    Một chủ đề đã một thời bị cấm
    Tôi lấy làm sung sướng vì lúc viếng thăm Thượng Hải tôi được tiếp xúc với nữ sĩ Wang Anyi một nhà văn có tác phẩm được đọc nhiều. Bà thuộc vào thế hệ đang ở vào những năm 30 tuổi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG
                      Bút ký

    Helsinki là thủ đô của Phần Lan - đất nước nằm về phía cực Bắc địa cầu, diện tích gần bằng Việt Nam, nhưng dân số chỉ hơn 5 triệu người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    … Cohen lớn lên ở một khu dân cư trên sườn đồi Mount Royal, gần sông Saint-Laurent (St. Lawrence) thơ mộng, chảy qua Montréal, Québec… Sinh ngày 21 tháng 9 năm 1934 trong một gia đình gốc Do Thái, bên ngoại có dòng máu Nga, Leonard chịu ảnh hưởng nhiều của thân phụ…

  • HIỆU CONSTANT

    (SHO) Nói đến Nhà thờ Đức bà thì hầu như ai cũng đã từng nghe. Qua tác phẩm bất hủ của Victor Hugo, nhưng nơi đây cũng là địa điểm yêu thích mà bất kỳ khách tham quan nào ghé Paris cũng cố gắng dừng chân!

  • Viện khoa học Weizmann là một trong những tổ chức hàng đầu thế giới về nghiên cứu và sáng tạo, một không gian lý tưởng cho việc hợp tác quốc tế nghiên cứu khoa học đa ngành. Người sáng lập viện là nhà hóa học, chủ nhân của patent “pure axeton”, cũng là nhà lãnh đạo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, Chủ tịch Tổ chức Phục quốc Do Thái và Tổng thống đầu tiên của Israel - Azriel Weizmann (1874 –1952).

  • Trong bài nói chuyện tại Yale Political Union1 ngày 23/4 năm nay, Meena Alexander bắt đầu với một trích dẫn từ bài luận năm 1821 của Shelley, “Sự biện hộ của thơ ca”. Kết luận – “Thi nhân là những nhà lập pháp không được thừa nhận của thế giới” – dẫn đến cuộc tranh luận sôi nổi. Sau đây là phiên bản đã sửa chữa đôi chỗ của bài nói chuyện mà Meena đã trình bày.

  • THÁI KIM LAN

    Thôi Hộ viết "hoa đào năm ngoái còn cười gió đông"? Ở đâu thời nào Tây hay Đông, thì hoa vẫn nở, đào vẫn chớm nụ trong gió xuân.

  • ELENA PUCILLO TRUONG

    Mệt mỏi! Chiếc xe lửa liên tục dằn xóc tạo nên những va đập trên lưng làm toàn thân tôi ê ẩm. Có lúc cơn mệt nhọc đã làm tôi thiếp đi trong một giấc ngủ ngắn, rồi giật mình thức giấc vì cái đầu lắc lư, đập lên thành toa, đau điếng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM

    Phải chăng, chiến tranh vẫn là chủ đề quan tâm nhất của xã hội phương Tây? Theo dõi đời sống văn học Pháp trong những năm trở lại đây, cho phép chúng ta khẳng định rằng, phần đa các tác phẩm đạt giải thưởng lớn đều có xu hướng lật lại quá khứ để lý giải những căn bệnh của xã hội đương đại.

  • Ông Nelson Mandela, biểu tượng của cuộc chiến chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở nước này và là một trong những nhân vật chính trị xuất chúng trong thế kỷ 20, đã qua đời ở tuổi 95. Tổng thống Nam Phi đương nhiệm ông Jacob Zuma nói sẽ cử hành quốc tang với nghi lễ trọng thể nhất với Nelson Mandela. Toàn nước Nam Phi sẽ treo cờ rủ từ thời điểm này cho đến hết lễ tang. "Đất nước chúng ta mất đi người con vĩ đại nhất. Toàn thể dân tộc ta mất đi một vị cha đáng kính", Tổng thống Nam Phi Jacob Zuma thông báo trong bài diễn văn đọc trên truyền hình trước toàn thể nhân dân.

  • ĐOÀN CẦM THI
          (Đọc “Yersin: dịch hạch & thổ tả” của Patrick Deville)

    Patrick Deville sinh năm 1957, tác giả của mười tiểu thuyết, giải thưởng Femina năm 2012, được coi là một trong các nhà văn Pháp hàng đầu hiện nay. Theo giới phê bình nghiên cứu, tác phẩm của Patrick Deville đã góp phần cách tân tiểu thuyết Pháp đương đại. Tiểu thuyết “Yersin: dịch hạch & thổ tả” của Patrick Deville vừa ra mắt độc giả Việt Nam.

  • Hai nhà văn Angiêri nổi tiếng Bulaiđ Đuđu và Muluđ Asur đến thăm tòa soạn Tạp chí "Văn học nước ngoài".