Bàn thêm về bản Kiều Duy Minh Thị 1872

09:08 26/12/2008
NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

Một sự tranh luận thẳng thắn bao giờ cũng là điều rất cần thiết, nhất là hiện nay, nếu muốn đẩy ngành Kiều học tiến lên (1)
Với tinh thần như vậy, dưới đây chúng tôi xin trao đổi thêm với Tiến sĩ về 2 vấn đề:
- Bản Kiều chép tay mà cụ Hoàng Xuân Hãn đề cao có phải chính là một bản Duy Minh Thị (D.M.T) không?
- Và bản D.M.T là một bản nên xếp vào đâu? Nó gần các bản Huế hơn hay là gần các bản hệ Thăng Long hơn?

2/ Về vấn đề đầu, T.S. Đào Thái Tôn cho rằng trong bài nói của cụ Hoàng Xuân Hãn “có một câu dễ khiến người đọc có thể hiểu như thế” (trang 83). Theo ý chúng tôi đó chỉ là một trong hệ thống những câu nói về nhiều chuyện khác nữa. Chúng đều chứng tỏ rằng Cụ Hoàng Xuân Hãn đang quan tâm đến một bản chép tay liên quan đến bản D.M.T, ví dụ như:
- Chuyện Cụ nói về những chi tiết cụ Nguyễn Du “lấy trong Kiều (2), viết ra y như thế, rồi những bản Nôm sau này người ta bỏ đi”. “Cái bản còn giữ nguyên vẹn những chi tiết... ấy là bản đầu tiên, ít ra gần với lời cụ Nguyễn Du hơn cả”.
- Chuyện Cụ về Tiên Điền hỏi cụ Nghè Mai về việc dùng TRƯỢNG NGHĨA thay cho TRỌNG NGHĨA để kị húy trong dòng họ; Cụ nói: “Trong Kiều thường thì nói “Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao”, nhưng bản tôi đọc mà tôi cho là xưa nhất thì không đúng thế, mà viết TRƯỢNG NGHĨA”;
- Chuyện Cụ hỏi cụ Nghè Mai về đoạn Sở Khanh tán Kiều, và được trả lời: “Trước cụ Nguyễn Du viết khác, rồi các cụ ngoài Bắc chữa lại. Cụ Nguyễn Du viết có 4 câu, các cụ chữa lại 6 câu”; Về câu trả lời đó, cụ Hoàng Xuân Hãn bình luận: “lời cụ Nguyễn Mai nói về đoạn ấy phù hợp với bản tôi coi là xưa nhất”.
- Chuyện Cụ thông tin cho chúng ta biết: “có một bản ở trong thấy đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng (3). Thì mình chắc chắn bản ấy người ta sao lại một bản từ đời Gia Long”. “Vào khoảng 42-43 tôi đã thấy bản này rồi”... “Hiện bây giờ có bản in, nhưng in sai rất nhiều, cho nên không mấy người để ý tới”. “Nhưng sự thực bản ấy là bản quí nhất”.

Cụ Hoàng Xuân Hãn cho biết Cụ về điều tra ở dòng họ Tiên Điền vào những năm 1942, 1943. Vào những năm đó, Cụ chỉ mới có được một số bản Kiều cổ viết tay chứ chưa có được một bản in nào của thế kỉ 19. Mặt khác, các chuyện Cụ đề cập đến trên đây lại đều là những chuyện chỉ liên quan đến một bản duy nhất: bản Duy Minh Thị (không kể đến hai bản Trương Vĩnh Kí và A.D.Michels in sau, và chịu ảnh hưởng D.M.T). Quả vậy, trong số các bản Kiều cổ như bản Lâm Nọa Phu (L.N.P) chép năm 1870, 2 bản Liễu Văn Đường (L.V.Đ) in năm 1866 và 1871, bản Trương Vĩnh Kí (T.V.K) in năm 1875, hai bản Quan Văn Đường (Q.V.Đ) và Thịnh Mỹ Đường (T.M.Đ) in năm 1879, bản A. D. Michels (A.D.M) in năm 1884, bản có kí hiệu thư viện là VNB-60, bản của Nordemann in năm 1897, và bản Kiều Oánh Mậu (K.O.M) biên tập trong khoảng 1889-1902... chỉ bản D.M.T là bản:

* Vừa có các câu bám sát nguyên tác Hán văn của Thanh Tâm Tài Nhân, như:
 - Treo tranh Quan Thánh trắng đôi lông mày (câu 930)
 - Mà chàng Thúc Thủ (thúc thủ) ra người bó tay (câu 2008)
 - Trông chàng nàng cũng ra tình đeo đai (câu 1064)
............................

* Vừa có TRƯỢNG NGHĨA thay cho TRỌNG NGHĨA:
 - Mà lòng trượng nghĩa khinh tài xiết bao (câu 310)
* Vừa có 4 câu cụ Nguyễn Du sơ thảo:
 Quế trong trăng, hạnh trên mây
 Cát lầm nỡ để cho đầy đọa hoa
 Tiếc điều nhầm chẳng biết ta
 Vẽ châu vớt ngọc dễ đà như chơi
 thay vì 6 câu 1067, 1068, 1069, 1070, 1071, 1072 đã được bạn bè chữa lại:
 Giá đành trong nguyệt trên mây
 Hoa sao hoa khéo giã giày với hoa
 Nổi gan riêng giận trời già
 Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng
 Thuyền quyên ví biết anh hùng
 Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi
 * Vừa có vết tích kị húy một cách triệt để theo lệnh năm 1803 đời Gia Long (kị húy GIỐNG/CHỦNG 6 lần bằng thay từ và 1 lần bằng gia dạng trên tổng số 7 chỗ; kị húy LAN, thay bằng HƯƠNG cũng 7 lần trên 7 chỗ v.v.); thậm chí có khi kị húy một cách quá mức cần thiết, như kị húy động từ LAN trong CỎ LAN MẶT ĐẤT, hay kị húy thanh phù LAN trong chữ DAN!).
 Vậy rõ ràng bản Kiều chép tay mà Cụ Hãn đề cao là một bản sao lại từ bản D.M.T 1872 hay sao lại từ bản gốc của bản in này (4).

3/ Về vấn đề thứ hai thì chúng tôi chủ trương chia các bản Kiều thế kỉ 19 thành 3 nhóm, căn cứ theo địa bàn xuất hiện của chúng ở 3 miền khác nhau: các bản miền Bắc, các bản gốc Huế và các bản của miền . T.S. Đào Thái Tôn, trái lại, chỉ phân thành hai hệ: hệ Thăng Long và hệ của kinh đô Huế. Bản D.M.T và bản Nordemann được tiến sĩ xếp vào hệ Huế.
Chuyện nên chia theo ba miền hay chia thành hai hệ và chuyện đặt bản Nordemann vào hệ Huế chúng tôi sẽ xin bàn trong một bài sau. Ở đây chúng tôi chỉ xin chứng minh rằng bản D.M.T có đặc điểm rất xa các bản L.N.P, K.O.M gốc Huế và rất gần với các bản miền Bắc, thuộc hệ Thăng Long, ngay nếu chỉ căn cứ đơn thuần trên các bảng điều tra của chính ngay tác giả (T.S. Đào Thái Tôn).

Từ trang 100 đến trang 169 T.S. Đào Thái Tôn đã lập những bảng có hình thức như sau:
- Ở cột phía bên trái là 5 bản miền Bắc, thuộc hệ Thăng Long, xếp theo thứ tự ABCDE: A là bản L.V.Đ 1866, B là bản L.V.Đ 1871, C là bản Q.V.Đ 1879, D là bản T.M.Đ 1879 và E là bản có kí hiệu VNB-60.
- Ở cột phía bên phải là 6 bản Tiến sĩ cho là thuộc hệ Huế, xếp theo thứ tự @GHIKL: @ là bản L.N.P, G là bản D.M.T, H là bản T.V.K, I là bản A.D Michels, K là bản Nordemann và L là bản K.O.M.
Trong các bảng vẽ này đang còn một số chỗ sơ suất nhất định nhưng tạm thời chúng tôi xin hoàn toàn tôn trọng tác giả ở các chỗ đó. Chúng tôi chỉ xin nêu 2 đề nghị:
- Tạm gác bản A/ 1866 vì bản này mất quá nhiều tờ, gây khó khăn cho việc tính toán;
- Và tạm coi bản K/1897 như một bản trung lập không ảnh hưởng gì đến 3 quá trình so sánh: D.M.T với hệ Thăng Long, D.M.T với hệ Huế, hệ Huế với hệ Thăng Long.
Chúng tôi chỉ chọn những câu có dị bản phổ biến, có mặt ở 6 bản trở lên trong tổng số 10 bản BCDE và @GHIKL vì đó là những trường hợp có thể rất gần với nguyên tác, dễ được mọi người tán thành. Làm như thế thì các bảng vẽ của T.S. Đào Thái Tôn sẽ đưa đến ba kết quả so sánh như sau:

I/ Ở BẢNG SO SÁNH BẢN DMT VỚI CÁC BẢN MIỀN BẮC (tức không có các bản HUẾ) chúng ta có 8 trường hợp với số lượng như sau (5):

Như vậy trong tổng số các câu dùng những dị bản thuộc loại phổ biến, bản D.M.T đã có đến 85 câu giống y như bản L.V.Đ 1871 nói riêng, giống hầu hết các bản miền Bắc, nói chung.

II/ Ở BẢNG SO SÁNH CÁC BẢN MIỀN BẮC VỚI HAI BẢN GỐC HUẾ (tức không có các bản miền ) chúng ta lại có 5 trường hợp với số lượng như sau:


Ở đây rõ ràng chúng ta lại phải kết luận là bản L.V.Đ-1871, cũng như đa số các bản miền Bắc, đều chỉ có được 39 dị bản giống với hai bản gốc Huế. Sự gần gũi giữa D.M.T-1872 với L.V.Đ-1871 lớn hơn gấp đôi!

III/ CÒN Ở BẢNG SO SÁNH HAI BẢN HUẾ VỚI BẢN DMT (tức không có các bản miền Bắc) chúng ta lại chỉ có được 17 câu, theo một mô hình duy nhất là:


Còn nếu coi NHỠ NHÀNG cũng như LỠ LÀNG, coi BẤY LÒNG cũng như MẤY LÒNG thì con số sẽ được nâng lên thành 17+2+1= 20. Con số đó vẫn rẩt thấp: chỉ bằng ½ con số ở bảng thứ hai và bằng chưa đến ¼ con số ở bảng thứ nhất. Vậy bản D.M.T gần nhất với các bản miền Bắc (85 dị bản giống nhau), các bản miền Bắc hơi xa hai bản Huế (39 dị bản giống nhau), hai bản Huế lại xa nhất bản D.M.T (chỉ còn tối đa 20 dị bản chung). Cứ liệu tiến sĩ Đào Thái Tôn nghiên cứu trên cơ sở 1100 câu hoàn toàn ăn khớp với cứ liệu nghiên cứu toàn bộ Truyện Kiều của chúng tôi, so sánh:
Số dị bản giống nhau
                                                     ở Đào Thái Tôn     ở Nguyễn Tài Cẩn
- Quan hệ D.M.T với các bản miền Bắc:           85        330
- Quan hệ các bản ở Bắc với ở Huế:                 39        93
- Quan hệ hai bản Huế với bản D.M.T: 20        64
Rõ ràng phải để bản DMT thành một hệ riêng chứ không thể xếp nó vào trong cùng hệ Huế là hệ xa nó nhất.
 N.T.C - P.A.D

(nguồn: TCSH số 211 - 09 - 2006)

 


 
----------------
(1): Đúng theo mong muốn của chúng tôi! Trong cuốn “Từ bản DMT đến bản KOM”, trang 94, chúng tôi đã viết: “Nếu chọn những dị bản quen thuộc thì chắc dễ được nhiều người tán thành. Nhưng mục đích của chúng tôi lại có phần khác: cố gắng gợi lên những khả năng mới, lật ngược vấn đề để gây tranh luận, kích thích tinh thần thích tìm tòi, thích khám phá. Đó là lí do vì sao chúng tôi hay quan tâm đến các dị bản lạ, bất ngờ, bị thiểu số.”
(2): Tức lấy từ trong nguyên bản KIM VÂN KIỀU TRUYỆN của Thanh Tâm Tài Nhân.
(3): Cụ Hoàng Xuân
Hãn chỉ nghĩ đến việc kị húy các tên của Gia Long, Minh Mạng nên kết luận theo chuyện thấy bản DMT kị húy CHỦNG nhưng vẫn dùng TÂM ĐẢM, chứ không đổi thành TÂM PHÚC như ở nhiều bản khác. Còn nếu nghĩ đến các lệnh kị húy thì bản DMT đã kị húy theo lệnh năm 1825 đời Minh Mạng: kị húy chữ ĐANG, tên mẹ của Minh Mạng.
(4): Những sự đánh giá của cụ H.X.Hãn nêu trên đây (như “bản đầu tiên”, bản “xưa nhất”, “bản quí nhất”) cũng chứng tỏ rằng Cụ đang nói về một bản sao liên quan đến bản DMT. Gần đây anh Nguyễn Văn Hoàn, anh Nghiêm Xuân Hải cũng đều khẳng định lại là Cụ rất đề cao bản Kiều đó.
(5): Chúng tôi dùng một đường gạch xiên/ ở vị trí bản nào là muốn nói rằng bản đó vắng mặt.
(6): Trên đây là 3 bảng tính số lượng dị bản phổ biến (dùng ở 6 bản trở lên) thống nhất chỉ giữa 2 miền: chỉ giữa và Bắc, chỉ giữa Bắc và Huế, hoặc chỉ giữa Huế và . Còn nếu không đặt điều kiện loại trừ sự có mặt của miền thứ ba thì kết quả sẽ là: 344 câu có dị bản phổ biến chung giữa G và B, 233 câu chung giữa G và @, và 202 câu chung giữa G và L. Vậy trong 1100 câu đầu tiên, bản DMT vẫn gần nhất với bản  LVĐ nói riêng, với các bản hệ Thăng Long, nói chung.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .