Bài viết cuối cùng của nhạc sĩ Phạm Duy gởi cho Tạp chí Sông Hương.

10:05 29/01/2013

Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.

PHẠM DUY
 

Ai cũng cần một người thầy


Khi tôi bắt đầu bước vào nghề soạn nhạc, tôi mới 22 tuổi. Tôi đã từng đọc những vở kịch thơ của thời đó như Anh Nga, Tiếng Địch Sông Ô của Phạm Huy Thông, Trầu Cau, Lý Chiêu Hoàng, Phạm Thái của Phan Khắc Khoan, Vân Muội của Vũ Hoàng Chương... rồi đem ra so sánh với những vở kịch thơ của Hoàng Cầm như Hận Nam Quan (1944), Kiều Loan, Cô Gái Điên, Lên Đường (1945), Cô Gái Nước Tần (1946) và nhất là Kiều Loan, Cô Gái Điên. Khi đó, tôi đã thấy ngay rằng những tác phẩm của Hoàng Cầm hay hơn những tác phẩm của người khác vì hai yếu tố kịch tính, lời thơ, nghĩa là hai mặt nội dung và hình thức đều rất là xuất sắc.

Chẳng hạn vở Kiều Loan, Cô Gái Điên có nhiều tình tiết với những nhân vật và hoàn cảnh đặc thù như người điên, người què, người say nằm chung trong ngục tối với mưu đồ phục hồi triều Lê trong thời đại Tây Sơn…Trong màn đầu tiên của vở kịch thơ này, Hoàng Cầm đưa ra môt nhân vật phụ nữ “điên thật” hay “giả vờ điên”, tay cầm một cành hoa, miệng cười ha hả… cất tiếng ngâm nga, chất vấn Tần Thủy Hoàng :

Hôm nay mới gặp Tần Thủy Hoàng
Bạo chúa như ông sướng hay khổ
Trời đã sang Thu, lá đã vàng
Ông cười hay khóc trong nấm mộ ?

Có lẽ trên đời này chỉ có một mình thi sĩ Hoàng Cầm băn khoăn về niềm vui sướng hay nỗi đau khổ của những bạo chúa thời xưa hay thời nay ! Trên thế giới, tôi thấy có ai viết thư cho Staline hay Hitler để hỏi hai bạo chúa này vui hay buồn trong việc giết và cầm tù hàng triệu sinh linh ?!
 
Tôi bèn mua vé đi coi kịch thơ Cô Gái Điên… và học được nhiều điều của một người trong thời bình an.
 
Riêng tôi coi Hoàng Cầm như ông thầy yêu nước của tôi vậy !…
 
Trước đây, tôi chỉ mới được làm quen được với hai thi nhân là Nguyễn Bính với Cô Hái Mơ và Lưu Trọng Lư với Tiếng Thu … thì chẳng học được gì ngoài những tình cảm thông thường của những người trong thời bình an.
 
1. Những bài ca yêu nước
 
Bây giờ tôi nỗ lực tìm hiểu về tình yêu nước qua những bài như  Đêm Liên Hoan, Bên Kia Sông Đuống, Tâm Sự Đêm Giao Thừa mà anh ta cho tôi ngâm chung trên sân khấu này… Trong hai năm, tôi được Hoàng Cầm hướng dẫn tôi vào tình yêu nước tức là yêu người Vệ Quốc Quân, yêu cảnh vật VN... Sau khi rời anh ra di, tôi đã có môt vốn liếng về những bài ca yêu nước như Tình Ca, Tình Hoài Hương.
 
2. Những câu chuyện vui về tôi

Có một lần, ngồi nói chuyện với Hoàng Cầm về Lưu Trọng Lư, tôi được nghe anh ngâm mấy câu thơ rất lãng mạn của “thi sĩ con nai vàng” :

Tiếng hát lẳng lơ
Một đoàn gái tơ
Nằm mơ trên bờ cỏ mởn
Một đàn nai tung tăng đùa rỡn
Theo điệu hát dòn ở cạnh sườn non.
 
Ai có nghe tiếng hát chị đò đưa
Mà không nhớ thương người quả phụ
Nằm ấp bóng trăng thưa
Luồn qua song cửa sổ...
 
Những câu thơ này hấp dẫn tôi đến độ vào nằm sâu trong tiềm thức của tôi, để một ngày nào đó, bật ra thành câu hát Nhớ Người Ra Đi :

Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già
Chờ con lúc đêm khuya
Người con đã ra vì nước…
 
Trong kỳ lưu diễn ở miền Cao-Bắc-Lạng này, tôi soạn thêm được nhiều bài dân ca khác trong đó có bài Nương Chiều :

Chiều ơi... Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ
Cho ngày mùa bài hát nên thơ, ơi chiều.
Chiều ơi... Mái nhà sàn thở khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư, ới chiều...

 
Đây là một bài dân ca loại mới và có sự tiến bộ về phần nhạc thuật vì nó không còn đơn sơ như những bài tôi đã soạn ra trước đây, chẳng hạn như Ru Con, Dặn Dò... Chính trong chuyến đi hát ở vùng này mà tôi thấy tôi đi đúng con đường thăng hoa dân ca. Một buổi nọ, sau khi trình diễn cho đồng bào thưởng thức những màn ca-vũ-kịch, Văn Chung cũng đã đưa ra một màn múa, diễn tả các động tác của nhà nông gọi là nông tác vũ. Một bà mẹ quê xin ra hát tặng anh chị em trong đoàn văn nghệ một bài hát cổ truyền. Chúng tôi vỗ tay hoan nghênh. Bà mẹ đằng hắng, lấy giọng, rồi hát :

Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già...
 
Đó là bài Nhớ Người Ra Đi của tôi. Nhưng bây giờ nó không còn là của tôi nữa. Nó là của dân chúng rồi. Tôi cảm động, muốn khóc oà lên... Vào lúc này, Hoàng Cầm vẫn còn nuôi mộng xây dựng một sân khấu kịch thơ sau khi vở Kiều Loan đã không có may mắn được sống trong công chúng. Nó rất muốn dựng những vở kịch thơ trong kháng chiến nhưng với một đội văn nghệ ít người và với đối tượng chính là Vệ Quốc Quân, bây giờ nó chỉ có thể soạn những bài thơ cho một hoặc hai người ngâm trên một thứ sân khấu ngoài trời mà thôi.
 
3. Những cuộc vui chơi
 
Trong kháng chiến, đội văn công của chúng tôi luôn luôn xê dịch trong ba tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Kạn. Đi từ địa điểm này tới địa điểm khác, toàn đi bằng “xe lô ca chân”. Cứ cách dăm ba ngày lại chuyển quân, vác ba lô, vác đàn và vác gạo, mỗi ngày đi bộ trên dưới 40 cây số đường rừng, đường núi...
 
Khi đi lưu diễn, chúng tôi thường đi trên đường đá, trong sương mù. Cảnh thì thật là đẹp, người miền núi thật đáng yêu, nhưng có khi đi nửa ngày mới gặp một cái bản, một cái thôn. Gặp một cái chợ thì như gặp cõi thiên đàng. Vì nhân viên trong đội toàn là văn nghệ sĩ cho nên chúng tôi bày đặt chuyện vừa đi vừa làm thơ cho đỡ buồn và cho đỡ mệt. Nhưng phải là thơ đặc biệt, chẳng hạn như khi đang đi thì thấy đội viên nhạc sĩ Văn Chung bực mình thốt lên :

Đường đá đưa đoàn đến đếch đâu ?
 
Thế là chúng tôi bỗng tìm ra cái thú làm thêm những câu thơ tiếp tục, những câu thơ hợp tình, hợp cảnh và theo một vần. Một câu thơ như vậy, cần phải đi dăm bảy cây số mới có được một câu mà toàn đội đồng ý. Tôi đã tung ra ngay câu thứ hai:

Xa xa xam xám xuống sương sầu
 
Câu thứ ba là của Ngọc Hiền :

Mịt mù mê mải mưa mưa mãi
 
Câu thứ tư chắc chắn phải là của Ngọc Bích, vì ngoài ba lô ra, anh ta còn phải đeo thêm cây đàn :

Đàn địch đem đi đến đớn đau...

Ít lâu sau, có thêm một cuộc làm thơ như thế, tôi xin kể ra đây :

Một ngày mưa lạnh trong vùng Lạng Sơn. Chúng tôi cắm cổ ra đi từ sáng sớm cho tới gần xế chiều, bụng thì đói, chân thì mỏi, tai lạnh ngắt, cổ khô khan... mà vẫn chưa gặp một cái quán nào để dừng chân uống một cốc cà phê, lau khô cái đầu cái cổ, nắn bóp cái tay cái chân. Mãi cho tới khi mặt trời đã khuất dần sau rặng núi, trời còn đang chạng vạng tranh tối tranh sáng thì gặp một số đồng bào người Thổ đi ngược đường cho biết là sắp tới chợ rồi. Chúng tôi reo mừng lên : ''Thế là ta có một vụ nghỉ ngơi ăn uống trả thù cái khổ rồi đây.''  Và chúng tôi bước mau...

Nhưng niềm hi vọng đó tiêu tan ngay khi chúng tôi tiến vào mảnh đất được gọi là cái chợ. Chỉ có ba túp nhà tranh vách nứa ọp ẹp nằm cách nhau khoảng chục thước. Nhà đầu trống không. Nhà thứ hai chỉ có treo lủng lẳng vài miếng thịt ôi. Tới nhà thứ ba thì... cả đội sững sờ, đứng lại trố mắt nhìn vào rồi thét lên vì kinh ngạc : Trời Đất, Cha Mẹ, Đồng Bào, Đồng Chí ơi ! Không thể tưởng tượng được, nào là chè lam, kẹo vừng, kẹo lạc...Nào là cà phê, sữa đặc (mới kháng chiến chưa tới một năm thôi mà)...

Và quá sức tưởng tượng hơn nữa là bà chủ quán, một thiếu phụ ngoài hai mươi tuổi người Hà Nội, rất đẹp, cùng với đứa hai con nhỏ theo chồng đi kháng chiến. Chồng đi Vệ Quốc Quân ở đâu không biết. Nàng mở quán cà phê ở đây, trong một cái chợ không có cả cái tên. Và cái lũ văn nghệ sĩ kháng chiến này có lẽ cũng là những lữ khách hiếm hoi của chủ quán đây.

Thật là vui hơn Tết, vui hơn cả ngày trọng đại Cách mạng Thành công. Trong khi bà chủ quán giết gà làm thịt, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Văn Chung ngồi nhắm rượu suông. Tôi và Ngọc Bích thì tự pha cà phê để uống. Cả bọn bỗng nổi hứng lên, giở trò làm thơ như lúc đi trên đường đá.

Văn Chung, dù có vợ kè kè bên cạnh, cũng nhăn nhó đưa ra câu đầu :

Mệt mỏi mà mơ mộng mỹ miều...

Chẳng cần phải đợi lâu, và vì cũng đọc được ý tình trong mắt của bà chủ quán, tôi tuôn ra câu thứ hai :

Ấy ai âu yếm ỡm ờ yêu...
 
Kịch sĩ Trúc Lâm, người chuyên đóng vai hài hước trong đội, nhìn thấy trên cái giường nứa độc nhất trong quán, nơi ăn ngủ của bà chủ và hai đứa con, nay có mấy anh văn nghệ sĩ ngồi dựa vào các loại ba lô đủ kiểu, ngất ngưởng uống rượu chờ gà... anh ta bèn đưa câu thơ thứ ba :

Chung chăn chung chiếu chung chè chén...
 
Cả bọn khoái chí, vỗ tay, hò la, tán thưởng câu thơ vui nhộn đó. Nhưng chúng tôi bỗng ý thức ngay được sự thô lỗ của mình và tất cả đồng ý là phải chữa lại cái lỗi này bằng một câu kết cho thật hay. Trò chơi ồn ào bỗng trở nên trầm lặng. Mặt anh nào cũng nghệt ra vì phải suy nghĩ. Lâu lâu lại có một anh đưa ra một câu bị mọi người chê ngay. Gà đã làm xong, bà chủ bưng ra, hơi nóng bốc lên cùng với hơi gà làm miệng người nào cũng có nước dãi, nhưng không anh nào dám đụng vào đĩa thịt gà khi câu thơ chưa làm xong...
 
Tới lúc Hoàng Cầm, sau khi rung đùi một lúc, đứng lên đưa ra câu thơ thứ tư thì ta mới thấy con người của ông hiện ra, thật là bình dị nhưng sâu sắc, thật là thơ mộng nhưng cũng rất tình người.

Người bạn thơ của tôi có đôi mắt sắc long lanh, có cái mũi dọc dừa và cái miệng lúc nào cũng như đang ngâm nga một câu thơ hay... Bây giờ ông trịnh trọng đứng lên đọc câu thơ kết thúc cho bài thơ đặc biệt này. Đó là câu :

Cháu trẻ chờ cha chốn chợ chiều.
 
Lúc đó, trời đã về khuya, trăng đã lên khỏi đầu núi. Cả bọn xúm nhau lại, lấy giấy bút ra ghi bốn câu thơ đó rồi dán ngay lên trên vách nứa với sự chứng kiến rất thân mật của bà chủ và hai đứa con nhỏ. Tôi không kịp tìm hiểu xem bà chủ quán vui hay buồn sau khi chúng làm xong bốn câu thơ đó, bởi vì tôi còn mải lấy đàn ra để phổ nhạc và hát ầm ỹ lên.

TP Hồ Chí Minh 12/2012

P.D
(SH288/02-13)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!

  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).