LÊ BÁ ĐẢNG
Bài viết do Phạm Thị Anh Nga chuyển ngữ theo đề nghị của Đạo diễn Đặng Nhật Minh và bà Lê Cẩm Tế, nguyên Giám đốc Trung tâm nghệ thuật Lê Bá Đảng, nhằm bổ sung cho cuốn phim tài liệu đang hoàn thiện về Lê Bá Đảng.
Tranh của họa sĩ Lê Bá Đảng
Bản gốc bằng tiếng Pháp của bài này không có nhan đề, bắt đầu bằng câu: “Je suis un homme qui vit des rêves de son paradis perdu”, và được xem là bài viết cuối cùng của họa sĩ Lê Bá Đảng.
Tôi là một người sống bằng những giấc mơ của thiên đường đã mất của mình.
Dù đã từng thành công đến mức nào, từng mạo hiểm đến thế nào đi nữa, cũng sẽ có lúc anh ta tìm thấy chính mình trong thế giới tiềm ẩn đó, thế giới anh ta đã khám phá qua những trải nghiệm thuở ấu thời.
Tôi chưa bao giờ rời bỏ quê hương. Dù cho trên thực tế tôi sống xa quê, nhưng tâm hồn tôi vẫn luôn gắn bó với quê nhà. Và trong lao động nghệ thuật, tất cả những gì tôi làm chỉ là phản ánh tình yêu vô cùng đa dạng đó.
Những đồ vật hiện hữu quanh tôi là thực tại trần trụi của cuộc sống thường nhật, nhưng khi người nghệ sĩ trong tôi lên tiếng, thì bao giờ cũng nhằm tìm lại không gian không rào cản nơi tôi đã lớn lên và không gian đó đã khơi gợi trong tôi tình yêu sáng tạo.
Những con đường của hành trình sáng tạo này được đánh dấu bằng những yếu tố điểm xuyết ở từng chặng khai mở sáng tạo. Và điều tôi tìm cách diễn đạt trong tác phẩm là những tia phản chiếu ánh sáng của các yếu tố đó, những tia sáng bắt nguồn từ tâm trạng ngất ngây của chính tôi.
Chính quê hương thời thơ ấu của tôi là nơi tôi đã học cách khám phá và yêu sự tươi trẻ vĩnh hằng của thế giới.
Và luôn luôn có cái gì khác đàng sau và ở giữa các sự vật, luôn luôn có một thung lũng phía sau một ngọn núi, nhưng hạnh phúc với tôi là được khám phá lại quãng không gian đã định hình nên tôi. Quãng không gian đó có thể là không gian ngăn cách tôi với một ngọn đồi hay một con sông, nâng tôi lên cao hơn cả những ngọn cây cao nhất.
Trong không gian đó có thể có sự bình yên của những nơi cư trú vĩnh hằng bên bờ đêm tối, có thể có dáng dấp quen thuộc của những người thân yêu, giọng nói và những bước chân của những người chúng ta yêu thương và yêu thương chúng ta, nhưng trên hết là cái ánh sáng không thể nào quên được đang run rẩy kia. Ánh sáng của một ngày vừa tỉnh giấc và chuẩn bị rực rỡ vào ban trưa, ánh sáng mà đêm tối gom lại như một kho báu.
Trong bóng tối đó, trong buổi hoàng hôn đó, trong cái nóng dữ dội của ngày hay trong làn gió dịu nhẹ của đêm, những hồ nước và những dòng sông lóng lánh như những vật thể bằng khoáng chất. Bãi cát lấm tấm những cánh hoa lấp lánh, và ở dốc núi các tảng đá lăn xuống biến thành những dòng thác lộng lẫy.
Đêm tối là một chiếc hộp nhung giam nhốt ánh sáng của tôi và ngăn không cho nó xung động. Những bức tường đen đá tảng khiến ánh sáng tung ngược trở lại như những viên đá cuội nẩy lên trên triền những ngọn sóng.
Huyền nhiệm thay ánh sáng, và đó là điều tôi thử tóm bắt trong các “không gian đen” của mình.
Nghệ thuật đích thực luôn là thơ, là sự biểu hiện tinh tế những quang cảnh giản dị hay các phương thức chuyển di ẩn dụ những cảm xúc sâu kín.
Điều tôi diễn đạt trong ngôn ngữ nghệ thuật của mình là chu kỳ muôn thuở của ánh sáng và của cuộc sống bên trong các sự vật, chung quanh các sự vật, bên trên các sự vật, và vượt ra ngoài các sự vật.
Vượt ra ngoài những thể hiện của nét bút trần gian.
L.B.Đ
(SHSDB27/12-2017)
VĨNH NGUYÊNTrước mặt tôi là thăm thẳm sâu hút chập chùng xanh đến rợn người mà thích thú làm sao! Hồ Truồi trong vắt dưới chân như ta có thể rơi tòm xuống đó nếu không may để sẩy bước hụt. Và, sau lưng tôi là chót đỉnh Bạch Mã gần kề như chỉ còn một tầm tay với. Nơi đây, mang cái tên lộng lẫy: Vọng Hải Đài!
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi không tin rằng một cô gái đẹp thì lúc nào cũng đẹp. Sông Hương cũng thế. Sông Hương là quà tặng ưu ái của Thượng đế dành cho kẻ phàm trần.
NGUYỄN HỮU THÔNGĐêm thêm như một dòng sữa.Lũ chúng em, âm thầm rủ nhau ra trước nhà.Đêm thơm, không phải từ hoa,Mà bởi lòng ta thiết tha tình yêu thái hòa.Đời vui như men sayNgọt lên cây trái..
NGUYỄN XUÂN TÙNGSống lạc quan yêu đời, luôn luôn làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành động để tự thắng mình trong mọi hoàn cảnh là một phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGỞ Huế hình như không có mùa thu, mùa thu chỉ ghé lại thành phố giữa một mùa nào đó, mùa hè chói chang hay mùa đông rét mướt. Vì thế, bao giờ người ta cũng đón chào mùa thu bằng nỗi vui mừng đến với một người thân đi xa mới về để lại vội vã ra đi, bằng một cái mà nhạc sĩ tiền chiến Đặng Thế Phong gọi là “Con thuyền không bến”. Trên sông Hương, hình như thường có nỗi bơ vơ chờ sẵn những tâm hồn lãng tử quen xa nhà từ vạn cổ.
TRẦN THÙY MAI“Khuôn mặt em đâu phải chữ điền, Trúc không che ngang mà che nghiêng”
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCái tin anh Phương mất đột ngột đến với tôi lúc 11 giờ đêm, qua giọng rã rời nghẹn ngào của nhà thơ Lương Ngọc An báo Văn nghệ, lúc tôi đang “dùi mài kinh sử” ở khu ký túc xá trường Đại học Y Hà Nội để lấy cho xong cái bằng Thạc sỹ.
Hành trìnhĐã từ lâu tôi cứ muốn đi núi Tuý Vân để tìm hiểu xem sao nó được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thứ 9 trong “Thần kinh nhị thập cảnh”.
Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.
Ngay lần đầu tiên gặp ông đã đầy kỷ niệm. Đại đội tôi giao quân bên bờ một con suối đẹp cách sông Hương không bao xa. Anh Nguyễn Châu trưởng ban quân lực Thành đội nhận quân xong, ông đến bắt tay từng người.
Tôi vừa đến vùng Bắc Tây Nguyên được mấy hôm thì gặp địch càn quét. Hôm đó tôi định vào cơ quan xã Đaktô để làm việc không ngờ gặp địch dọc đường, tôi tạt vào rừng và nhắm hướng trở lại đơn vị, nhưng càng đi càng lạc sâu vào rừng thẳm.
Rời Bắc Hải chúng tôi bảo nhau từ giờ trở đi sẽ chỉ ở khách sạn chứ ở nhà người quen có cái vui nhưng cũng gây phiền toái cho bạn bởi chúng tôi đi chơi bất tử chẳng có giờ giấc nhất định nào.
Có một lão ngư kiêm lão nông suốt mấy chục năm trời vắt mồ hôi thành muối, tưới mồ hôi thành sông hồ mà mảnh vườn nhà vẫn cằn khô, chiếc thuyền nhà vẫn không tanh mùi cá biển. Quang cảnh vườn nhà cứ một mùa xanh lại ba mùa rụng lá, khô cành. Vợ chồng con cái chỉ thấy mắt chẳng thấy mồm. Xung quanh hàng xóm cũng chung hoàn cảnh.
Đấy là vào khoảng cuối chiến dịch Điện Biên Phủ – 1954. Đơn vị chúng tôi (đại đội 410 – đội 40 – TNXP Trung ương) được điều đi nhận nhiệm vụ mới.
1. Cô bạn cùng cơ quan nghe nói tôi “có tay nuôi người”, lại quen biết giao du rộng rãi nên có ý nhờ tìm một người giúp việc nhà cho vợ chồng cô em gái.