Bài thơ thay lời một liệt sĩ gửi người yêu trước lúc hy sinh

09:26 29/05/2009
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.

Đại đội trưởng của tôi lúc ấy là Trần Hữu Bê đã chép lại bài thơ này vào sổ tay. 34 năm sau, anh Bê (là đại tá trường Sĩ quan Công binh) gặp  lại tôi và trao lại cho tôi bài thơ mà anh đã chép. Nhớ lại chuyện xưa, tôi về Quế Phong tìm lại người yêu cũ của trung đội trưởng, nhưng cô đã nghỉ hưu tại quê nhà là xã Hưng Đạo; Hưng Nguyên, Nghệ An. Và tôi được biết, sau khi được tin người yêu hy sinh, cô Ánh vẫn chờ đến năm 1974 mới lấy chồng, sinh được 2 trai 1 gái. Con trai đầu của cô đã là sỹ quan công binh. Chồng cô đã mất cách đây hơn 10 năm.
Tôi đã gặp cô Ánh ở quê nhà và nói với cô rằng, tôi chỉ là người chép lại tâm sự của trung đội trưởng trước lúc anh hy sinh, gửi về cho cô. Nhưng đấy cũng là tâm trạng chung của nhiều người lính đối với người yêu thời chiến tranh khốc liệt...


Chiều vàng trôi
Mặt trời về khép cửa Trường Sơn
Anh ngắm biên cương
Bâng khuâng nhớ chiều quê hương

Chiều vàng trôi
Không níu lại được thời gian
Riêng anh giữ mãi chiều gặp em
Núi trở mình rừng buông màn đêm

Và bấy giờ sau lưng núi trăng lên
Trăng đầu tháng lặng im không nói
Trăng yếu ớt xua chiều đi vồi vội
Trăng hiểu rằng, từ đây anh xa em

Nhớ nhau nhiều là buổi đầu tiên
Khi anh nói lời yêu em thẹn thùng cúi mặt
Trăng bẽn lẽn sau vòm cây ẩn nấp
Em nhìn anh, ôi, gương mặt trăng đầy...

Trăng rắc vàng lên mái tóc mây
Trời lấm tấm những vì sao xa lắc
Một dải ngân hà mờ ánh bạc
Ngưu Lang và Chức Nữ có gần nhau?...

Trên sao xa rồi cũng sẽ có người
Những làng mạc sẽ thay bằng thành phố
Mái trường xinh em với đàn em nhỏ
Hát sau giờ ra chơi...

Âm thanh xa anh không rõ ý lời
Vọng tiếng nhạc tận khoảng không vũ trụ
Và dáng dấp những người thiếu nữ
Cô giáo Lào, nàng tiên, hay là em?

Đồng đội và anh thức với màn đêm
Súng gác sao trời hiện mảnh trăng đầu tháng
Anh ngỡ mình bay ra ngoài giới hạn
Đến một vì sao xa, nơi ấy có em yêu...
                                Khe Tang, ngày 10.11 .1968

(173/07-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tên thật: Trần Văn MườiSinh ngày 9.9.1982 tại Đông Yên, Phúc Thành, Yên Thành, Nghệ AnTốt nghiệp Đại học sư phạm Huế (Khoa ngữ văn)Đã có thơ, truyện đăng trên nhiều báo chí Trung ương và địa phương với các bút danh: Đinh Hạ, Minh Châu Trần, Trần Đông Yên Phương.Giải khuyến khích cuộc thi thơ lục bát của Báo Tuổi trẻ 2003.

  • Ditimloigiaicuocdoi là nickname của Bụi Trần đang “bế tắc chưa tìm lối thoát cho bệnh tật và đã sống như một phế phẩm suốt 5 năm tròn”. Thơ, hẳn là niềm ân sủng duy nhất có thể cứu rỗi tâm hồn của người bạn nhỏ đáng thương này dẫu Bụi Trần đang muốn khám phá nhiều thể loại khác nữa. Chúng tôi đọc được ở thơ Bụi Trần lời tri âm trong bản nhạc vút lên từ địa ngục của một nhạc sĩ quá cố. Nhưng ước vọng thoát khỏi niềm đau mang bản chất định nghiệp tại mỗi người là không lẫn lộn... TCSH

  • Điều bình thường lạ lẫm

  • Được nhìn lại Huế

  • Lê Vi Thủy - Thái Hải - Phạm Nguyên Tường - Lê Huy Hạnh - Nhất Lâm - Nguyễn Hoa

  • Huỳnh Quang Nam - Huy Phương - Trần Dzụ - Trần Hữu Lục - Lê Huy Mậu - Tôn Nữ Ngọc Hoa - Hồ Ngọc Chương

  • ĐINH THỊ NHƯ THÚYĐã buồn trước cho những ngày chưa đếnnhững chia xa đang sum họpnhững mỏi mệt đang hân hoannhững bóng tối khuất lấp đang rực sángĐã nhìn thấy vết chémròng ròng máu đỏ tươi trên da thịtnhư nhìn thấy bước chân người hành khấtchậm rãi lê trên đường

  • Ở những đỉnh cột

  • Sinh năm Nhâm Thìn, Phan Văn Chương từng tham gia quân đội, hiện là hiệu trưởng trường THCS Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Thơ đến với anh như người tình muộn. Có điều anh biết chọn lọc, học hỏi, vượt qua những cản trở thế tục, tiếp thu cái mới của đời sống văn học hôm nay đang chuyển đổi. Nhờ thế thơ anh sớm tạo được không gian riêng, cách nói riêng. Phan Văn Chương chứng minh rằng, ở bất kỳ lứa tuổi nào, người ta vẫn có thể tìm cách vượt lên, nếu tự mình khai phá, xác lập được con đường mình đang đi.                                     HOÀNG VŨ THUẬT

  • Hoàng Vũ Thuật - Lê Thái Sơn - Thiết Mộc Lan - Ngô Hà Phương - Lê Tấn Quỳnh - Nguyễn Quốc Hiền - Phan Bùi Bảo Thy

  • Năm sinh: 1950Quê quán: Đại Lộc, Quảng NamThơ đã in trên nhiều báo, tạp chí, tuyển tập (1971- 2004)Đã xuất bản: Trong hoàng hôn gió  (1995), Trăng của ngày (1999), Thơ bốn câu (2001), Bài ca của gió (2002), Phía sau tôi (2003).

  • Bóng xưa            Đập cổ kính ra tìm thấy bóng                Xếp tàn y lại để cầm hơi                                                Tự Đức

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ                                                 Kính viếng bác Hoài Chân Nguyễn Đức Phiên.                 đồng tác giả “Thi nhân Việt Nam”, 1941

  • Từ Nữ Triệu Vương - Trần Thị Vĩnh Liên -  Chử Văn Long - Lê Văn Kính - Nguyễn Quốc Anh - Ma Trường Nguyên - Tôn Phong -  Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Đức Tiến - Đặng Nguyệt Anh

  • Lam Hạnh - Tuệ Lam - Chử Văn Long - Nguyễn Man Kim - Hoàng Vũ Thuật - Khaly Chàm

  • Tên thật: Nguyễn Phạm Tú TrinhSinh 1983Sinh viên Khoa Ngữ Văn - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănGiải nhất cuộc thi thơ “Đất nước và lục bát” của báo Tuổi Trẻ. 2003.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO chọn và giới thiệuThời Thơ Mới ở ta đã có thơ hình thoi, thơ hình tam giác, thơ hình thập giá... Và bây giờ thơ “tân hình thức” của người Việt ở hải ngoại cũng đã làm nao lòng một số người làm thơ trong nước. Những loại thơ hình thức ấy thường là bắt chước những cách tân kỳ dị của thơ phương Tây từ thế kỷ XIX đến ngày nay. Thực ra thì thơ chữ Nho ở ta cũng đã từng có thơ hình tròn, thậm chí có bài đọc được đến 18 cách, nhưng những “người hiện đại” ở ta lại thường vẫn chuộng thơ Tây và từ đó cũng “sáng tạo” ra những hình thức kỳ dị khác gây chú ý cho người đọc (xem).

  • …Cả rừng cây thấy mẹ cườiMẹ ơi! nước mắt đầy cơi đựng trầuThác ngàn xa vẫn nguyện cầuVô thường! mẹ nhuộm biếc màu trời xanh.