Ba buổi sáng với Trần Dần

09:12 03/06/2008
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

Tôi đã đọc tiểu thuyết “Người người lớp lớp” của ông từ lúc học trường làng ở Quảng Bình trong tủ sách ba tôi để lại. Trong tưởng tượng của tôi ông là một chiến binh cao lớn, oai vệ lắm. Nhưng khi gặp ông lần đầu ở Huế cách đây gần mười năm tôi chợt ngớ ra trước một ông già nhỏ bé, bạc trắng tóc râu, một chân bị liệt phải chống chiếc gậy trúc, đi đứng nhọc nhằn, lên bậc tam cấp phải có người dìu đỡ. Tiếng ông nói vang, ấm nhưng thường bị hụt hơi vào cuối câu, nên rất khó nghe. Chỉ đôi mắt ông là rực sáng, long lanh như hai hột ngọc. Đôi mắt ấy phát sáng cho ta đọc được một tính cách mạnh mẽ. Đôi mắt lấp lánh của một tư chất thông minh, nhạy cảm và đầy tin cậy. Và khi tiếp xúc nhiều lần với ông, nghe ông đọc thơ, nghe ông kể chuyện và đọc thơ văn ông, tôi nhận ra một điều lý thú: Ngôn ngữ của ông cũng long lanh ánh sáng rất ấn tượng như mắt ông!
Chuyến ông được Phùng Quán “tháp tùng” vào Huế đầu tháng 5/1988 theo ông kể là chuyến vô Huế lần thứ hai. Hồi còn trẻ, năm 1946, ông theo một “bóng hồng” vô Huế như một lữ khách giang hồ. Sau ba mươi năm “ngồi một chỗ” ở Hà Nội, vào Huế ông được mời tiếp xúc, đối thoại với công chúng hai buổi tối ở Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên (cũ), và ở Nhà Văn hóa Thanh Niên Thành Đoàn Huế. Buổi tối ngày 14-4-1988, vợ chồng tôi vinh hạnh được mời cơm ông, anh Phùng Quán, cùng các anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Lập, Vĩnh Nguyên. v..v. tại căn hộ tập thể của tôi ở chân dốc Bến Ngự, gần nhà Cụ Phan Bội Châu. Khi ông tới nhà, vợ tôi cứ bấm vào lưng tôi hỏi: “Xưng hô bằng gì? Xưng hô bằng gì?”. Vợ tôi hỏi thế bởi lúc đó ông đã sáu mươi hai tuổi, lớn hơn tôi tới hai giáp, hơn cả tuổi bố vợ tôi! Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn vợ tôi cười rồi nói lớn: “Tất cả các nhà thơ, nghệ sĩ đều phải gọi bằng “Anh” tất!”. Trong bữa, anh em thì uống rượu với đồ nhắm. Riêng Trần Dần không ăn được các thứ thức nhậu, chỉ uống tí rượu và ăn bánh nậm, bánh lọc, bánh bèo Huế cùng với hai cháu nhỏ Hải Bình, Hải Tân. Tối hôm đó mất điện, phải thắp đèn dầu, nhưng câu chuyện văn chương hội ngộ vẫn rôm rả đến tận khuya. Tan cuộc, chống gậy đứng dậy, Trần Dần thốt lên: “Ở Huế ăn ngon, hợp khẩu vị, không cay như món ăn Ấn Độ. Bánh của nhân loại Huế, nhân loại tím là chúa sơn lâm! Các nơi khác cũng có nguyên liệu ấy, mà không làm được”. Rồi ông nói sang chuyện văn chương. “Cái ngon, cái mới cũng có sẵn đâu đó như là bánh Huế. Chỉ có người thích làm, dám làm, biết làm mới làm được...”. Sau các buổi “ra mắt” ấy, ông lại “ngồi” tại khách sạn 2 - Lê Lợi, chỗ ông được bao trọ. Tại đây tôi có ba buổi sáng trò chuyện với ông. Nói đúng hơn là tôi đặt câu hỏi rồi ngồi nghe ông nói. Và ghi chép như một nhà báo. Ông nói rất hay, rất cuốn hút.
Sáng hôm sau, tôi đến khách sạn phòng 4 Khu A, Khách sạn 2 - Lê Lợi Huế hầu chuyện ông. Thấy ông ngồi một mình trên giường, tôi hỏi sao không đi chơi đâu đó với anh Quán. Ông nói: Phùng Quán ngồi không yên, chỉ thích đi. Mình ngồi ba chục năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ “bụi”, sổ “ngao du”. Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mới nghĩ ra, có khi ngoài cả ý thức. Đó là cách đi của mình. Đang nói rồi ông chợt dừng lại, chớp mắt, hỏi tôi: “Ngô Minh có quen Dương Tường không?”. Tôi bảo có đến nhà uống rượu với anh ấy mấy lần. Ông bảo: “Dương Tường hợp với tính mình, nó ngồi được. Nghĩ nhiều hơn đi!” Tôi hỏi ông có thích uống rượu không, Huế có rượu Chuồn, rượu Hiếu ngon chẳng khác gì rượu làng Vân ngoài Bắc. Ông bảo: Mình không uống được nhiều rượu. Vui thì làm một ly. Nhưng nói chung thì không uống. Mình chỉ “nghiện” thuốc Lào. Thuốc Lào phải hút bằng đóm, châm vào đèn dầu hỏa như các cụ ở quê, mùi muội đèn làm cho thuốc “bắt” hơn.
Tôi lái sang chuyện thơ. Ông phấn chấn hẳn lên. “Thơ là cái thăm thẳm. Thơ là cái không lường được như Arixtốt nói. Không thể lường được với các nhà thơ!. Có người khuyên cụ Phan (Bội Châu): “Lập thân tối hạ thị văn chương”. Cụ Phan không nói gì mà chỉ cười. Rồi cụ Phan vẫn lấy văn chương mà lập thân. Văn chương có hai loại: Văn chương quân tử và văn chương tiểu nhân. Văn chương tiểu nhân thì không lập thân được. Văn chương Cụ Phan hướng tới mục đích là văn hiến, văn hóa là khai sáng.
Vào Huế mình thấy Huế đúng là xứ thơ. Thơ là trời, là đất, là vũ trụ. Phải có các yếu tố ấy mới có thơ hay, thơ lớn! Ở đây vừa có trời, vừa có trăng sao, lại vừa có đất. Ở các thành phố hiện đại trẻ con không biết có ông trăng, không biết có trời, lại không biết có đất vì chỗ nào cũng gạch lát với đường nhựa. Ở phố Cổng Tỉnh ( Định) quê mình cũng có trời, có đất. Trời đất Cổng Tỉnh cho mình tiểu thuyết thơ “Cổng Tỉnh”! Tôi rất kinh ngạc khi ông đọc cho tôi nghe một danh sách dài hơn 30 cuốn mà ông viết trong 30 năm qua, kể từ vụ “nhân văn”, từ sau Người người lớp lớp, Nhất định thắng, Cách mạng Tháng 8 (1955 - 1956). Đó là các tác phẩm “Đây Việt Bắc (thơ 1957); 17 tình ca(1958 - 1959); Cổng Tỉnh (1960 tập thơ); Đêm núm Sen (1961 - tiểu thuyết); Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết - 1964); Mùa sạch (tập thơ); Chòe một ngày Cẩm Phả (1965 - tiểu thuyết); Con trắng (1967 - tập thơ hồi ký); Đọng đất tâm thần (tập thơ - 1974); Thơ không lời - mây không lời (tập thơ - 1978); Thiên Thanh - 77 - ngày ngày (1979); 36 - thở dài - Tư Mã dâng sao (thơ - 1980); Thơ Mi ni (1987)..v.v.. và rất nhiều tác phẩm văn học dịch. Quả là một sức sáng tạo cực kỳ. Đa số các tác phẩm trên chưa được in. Gần đây ông được Nhà xuất bản Hội Nhà văn in Bài thơ Việt Bắc (trường ca - 1990) và tập thơ Cổng Tỉnh (1995). Tập thơ Cổng Tỉnh được tặng thưởng Hội Nhà văn Việt 1995. Âu đó cũng là niềm an ủi đối với ông sau mấy mươi năm vắng bóng trên văn đàn. Nhưng còn rất nhiều bản thảo của ông chưa được xuất bản, mong sao các tác phẩm ấy sớm đến được với độc giả.
Sáng hôm sau ông lại say sưa nói với tôi về thơ. Trần Dần cho rằng: “Làm thơ là làm chữ. Con chữ nó đẻ ra nghĩa, sẽ được nhiều nghĩa. Cái biết rồi là cái nghĩa. Cái chưa biết là cái chữ. Nếu làm thơ mà làm nghĩa rồi mượn chữ để diễn đạt nghĩa thì nghĩa sẽ hẹp. Cái chưa biết mới là cái thăm thẳm. Cái chưa biết chính là cái mới. Nguyễn Du vừa là chữ vừa làm nghĩa. Ví dụ câu: “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, là làm nghĩa. Còn câu Mai sau dù có bao giờ là làm chữ. “Ngô Minh thấy không - ông nhấn mạnh - Câu thơ hoàn toàn hư tự mà lại đa nghĩa, đa cảm! Có anh bạn làm thơ ở Hà Nội, tôi và Phùng Quán thường gọi là “Thi sĩ Chúc Bờ sông” vì ông ấy ở bên bờ sông Hồng. Ông ta có nhiều bài thơ cực ngắn. Ví dụ có bài có cái tựa đề là Vợ chồng. Còn cả bài thơ chỉ có một chữ: Xong! Tôi có lời bình rất tâm đắc về bài thơ ông Chúc ấy, nhưng bị Phùng Quán chê là quá dài dòng! Lời bình của tôi là: Vợ chồng - cái mớ bòng bong ấy gọi là xong!. Chữ của thơ nó khiếp thế đấy Ngô Minh ạ. “Gần đây tôi làm nhiều thơ ngắn. Cực ngắn. Gọi là thơ mi ni. Mỗi bài thơ chỉ một hai câu. Cũng muốn đưa ra một “loại” thơ mới, trọng cái chữ hơn! Ví dụ bài một câu: “Mưa rơi không cần phiên dịch”. Hay bài có hai câu: “Có những chân trời không có người bay/  Lại có những người bay không có chân trời!”..v..v..
Tôi nhắc lại chuyện năm 1946, ông cùng với Đinh Hùng và một số bạn thơ lập nên mhóm “Dạ Đài” với tuyên ngôn thơ tượng trưng. Chủ trương làm cuộc “cách mạng” đổi mới thơ ca. Thực tế ông vừa là người chiến sĩ tham gia kháng chiến chống Pháp, đánh trận Điện Biên Phủ, viết tiểu thuyết ca ngợi người lính cách mạng một cách hết lòng; vừa là “chiến sĩ thơ” luôn trung thành và xông xáo với ước vọng “đổi mới thơ ca”. Ông nhìn ra xa, lặng lẽ châm đóm thuốc lào. Rồi ông nói, giọng trầm hơn: “Hôm qua tôi nói trước công chúng là “chôn tiền chiến”, chắc có người hiểu chưa hết ý tôi. Thơ văn tiền chiến là thành tựu rất lớn của văn học Việt . Không thể phủ nhận! Nhưng thế hệ mình, sau tiền chiến, phải có cái mới của mình chứ. Thơ phải luôn luôn tự đổi mới. Bắt chước tiền chiến là một loại bệnh! Tôi gọi đó là bệnh đèm đẹp. Giống như người trồng hoa mà mỗi buổi sáng lại đi rưới nước hoa vào mỗi luống hoa. Quen dần trong nếp cũ, sẽ không còn khả năng sáng tạo ra cái mới, cái có ích. Tức là mất khả năng khám phá. Là “chết dần” với những cái cũ lặp lại. Cho nên phải chôn văn học tiền chiến (Tự Lực văn đoàn, Thơ “mới”...) vào lịch sử!. Có như vậy mới mở ra được một thời đại văn học thực sự mới. Loài người phải luôn khám phá, sáng tạo cái mới. Tự do là tất yếu là một phát kiến lớn. Nhưng Hội nghị triết học bàn tròn thế giới tại Pháp lại cho rằng Tự do là phản tất yếu, cũng là một phát kiến cách mạng không kém! Con người không thể bay vì con người không có cánh như chim - đó là tất yếu. Nhưng con người muốn bay và bay được - đó là phản tất yếu! Những người lắp cánh bằng màng mỏng vào tay, bay từ tầng lầu cao xuống đã chết.  Đó là cái chết của ước muốn bay. Đó là sự hy sinh để mở đầu kỷ nguyên khoa học hàng không và vũ trụ. Đó là Tự Do! Đi vào cái mới, khám phá cái mới cũng có thể phải chết. Nhưng nếu không có sự khai phá, sự dấn thân của một cá nhân, một nhóm, một thế hệ, thì cả nhân loại chỉ có “tự do” sống trong cái cũ! Vì thế mà tôi luôn chủ trương đổi mới thơ. Đấy tôi nói “chôn tiền chiến” là “chôn” theo ý nghĩa cách mạng ấy, chứ không phủ nhận ai cả!
Ông tự gọi mình là Mã Tư Gãy. Ấy là sự buồn của đời ông. Nhưng trong tôi ông bao giờ cũng để lại ấn tượng mạnh, rất mạnh. Bây giờ ông đã trở thành người thiên cổ. Tôi viết mấy dòng về cuộc gặp gỡ với ông ở Huế như nén nhang tưởng niệm ông, một nhà văn suốt đời vì những con chữ Việt!
Huế, một ngày đông nhớ

NGÔ MINH
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

  • ĐẶNG HUY GIANG

    Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.

  • Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

  • BÍCH THU
    (Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

    Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.

  • Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.