Gia đình gốc người Liban, sinh tại Le Caire, Ai Cập (1920), học tiểu học tại quê nhà, trung học tại Paris, lại trở về Le Caire học Trường Đại học Mỹ ngành báo chí, cùng chồng chuyển sang sống tại Liban năm 1942, định cư tại Paris từ năm 1946, nhập quốc tịch Pháp và sống luôn ở đó cho đến khi qua đời (2011), Andrée Chedid đã bắc nhịp cầu nối liền hai nền văn hóa Pháp và Trung Đông bằng những tác phẩm của mình.
“Tôi cảm thấy hạnh phúc được thuộc về thế giới vùng Trung Đông. Tôi thấy nó rung động trong tôi và tôi muốn vinh danh nó khi viết. Về tình cảm, tôi thấy rất gắn bó với Le Caire, thành phố tuổi thanh xuân của tôi. Mỗi lần đến đó, tôi cảm nhận một sự quyến luyến mãnh liệt. Tôi muốn chạm vào đất, đắm mình vào những mùi hương, những ánh sáng, những âm thanh. Điều này rất thực tế. Tuy nhiên, chính nơi đây, tại Paris này, tôi mới cảm thấy thoải mái, tự do. Chẳng làm được gì tử tế nếu cứ bám vào quá khứ. Nhắc đi nhắc lại mãi những căm ghét, thù hận, hoặc thậm chí hạnh phúc đi nữa chỉ khiến ta khó mà yêu thương trong hiện tại. Mẹ tôi là một phụ nữ tuyệt vời. Bà mất năm 97 tuổi. Tôi chưa bao giờ nghe bà nói, vào thời của mẹ người ta làm thế này, vào thời của mẹ chuyện xảy ra thế kia. Chính bà đã gợi cho tôi yêu tự do, yêu cuộc sống.”
Trong những trang viết của mình, Andrée Chedid mô tả con người thành thị và thôn quê của quê hương Ai Cập, với những mối quan hệ của họ, nhắc đến sự tự do mà họ khao khát, những bất công mà họ thường gánh chịu, nói về thân phận của người phụ nữ ở phương Đông, về tình yêu, cuộc sống và cái chết.
Được hỏi về sự khác biệt giữa công việc viết truyện và làm thơ, Andrée Chedid nói rằng tiểu thuyết đòi hỏi nhiều kỷ luật. Cần phải dụng công mỗi ngày, có khi mất đến một, hai năm, phải cố gắng liên tục, không để lạc mất sợi chỉ xuyên suốt cốt truyện. Còn khi làm thơ thì chất liệu xuất hiện nguyên khối, và trong một mối bòng bong như thế, ta có thể đào xới, nhào nặn, gạch bỏ, thật thú vị hơn nhiều. Quả như vậy, Andrée Chedid viết nhiều thể loại, nhưng trước hết bà vẫn là một nhà thơ. Bà đã từng viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, nhưng tất cả chỉ là những biến tấu của thơ.
“Thơ ca vẫn mãi là phương cách duy nhất để đối diện với sự mong manh của phận người, với sự bí mật khôn lường của cái chết, là chiếc chìa khóa giải thích một vũ trụ mà bề mặt hiển thị luôn che giấu một thực thể kín đáo khác mà thơ ca có nhiệm vụ giải mã.”
Bắt đầu sáng tác từ năm 18 tuổi, Andrée Chedid đã để lại 17 tiểu thuyết, 7 vở kịch, nhiều truyện ngắn và sách truyện dành cho trẻ em. Riêng về thơ, tác phẩm đầu tiên được xuất bản năm 1949, sau đó cứ hai, ba năm bà lại in một cuốn thơ mới, phần lớn nay đã tuyệt bản. Năm 1987, Nhà xuất bản Flammarion tập hợp tất cả thơ bà viết từ năm 1949 đến 1970 in chung một cuốn lấy tên là Textes pour un poème. Năm 1991 lại in tiếp cuốn Poèmes pour un texte, gồm những bài thơ đã viết trong các năm 1970 đến 1991. Tác phẩm của Andrée Chedid (chủ yếu viết bằng tiếng Pháp tuy bà thông thạo cả tiếng Anh và tiếng Á Rập) đã được dịch ra 15 ngôn ngữ.
Andrée Chedid đã được tặng Giải thưởng Mallarmé (về thơ) năm 1976, Giải Goncourt về truyện ngắn năm 1979 (với tác phẩm Les corps et le temps), giải Goncourt về thơ năm 2002 (về toàn bộ tác phẩm). Năm 2009, bà vinh dự được trao Huân chương Bắc đẩu Bội tinh.
Việt Phương dịch và giới thiệu
ANDRÉE CHEDID
Nhìn tuổi thơ
Đến tận bến bờ cuộc sống
Bạn sẽ mang mãi tuổi thơ
Với ngụ ngôn và nước mắt
Run rẩy, sợ hãi thẫn thờ.
Lần theo dòng đời năm tháng
Tuổi thơ vượt trước bạn luôn
Cản ngăn bước chân bạn tới
Hoặc là vạch lối chỉ đường.
Rất lạ lùng và thần diệu
Con mắt tuổi thơ thần tiên
Từ cội nguồn luôn giam giữ
Vũ trụ của những tia nhìn.
Tình yêu II
Mới mẻ hơn mọi lời nói
Tự do hơn mọi ngôn ngữ
Trần trụi hơn sự lặng thinh
Tình yêu mãi hoài tái sinh.
Bị bắt chước nó tự chỉnh sửa
Bị giả mạo nó tự đứng lên
Bị qua mặt nó nhanh đuổi kịp
Thật diệu kỳ nó tái tạo luôn.
Vào mọi thời đại
Qua mọi biên cương
Tình yêu thuộc về chúng ta
Mãi mãi!
Cuộc đời dịch chuyển
Không một lộ trình
Không một hải hành
Sánh bằng những dịch chuyển của cuộc đời
Chuyển động trong các mạch máu
Tập trung vào hòn đảo trái tim
Di chuyển qua từng lứa tuổi.
Không một cuộc thám hiểm nào
Không một lần khai khoáng nào
Có thể đem ra đọ với sự tuần hoàn của máu
Với những đắp bồi của thân thể
Với những phun trào của linh hồn
Không một độ cao
Không một đỉnh chóp
Có thể chế ngự cái khoảnh khắc
Lúc mà ban phát cho ngươi hình hài
Cuộc đời đã gán cho ngươi sự sống.
Cuộc du hành lạ lùng
Của đời sống
Đã trở thành
Chính ngươi!
Quê tôi ở khắp chốn
Quê tôi ở khắp chốn
Trên mọi miền thế giới
Nó nằm ở phía kia
Nó nằm ở nơi khác.
Quê tôi ở khắp chốn
Giáp ranh vùng phụ cận
Ở nơi chỗ dừng chân
Ở trong từng khoảnh khắc
Ở trong vùng sinh sống
Ở tại chốn ngụ cư
Ở cõi nào xa lắc
Và ngay tại nơi đây.
Sự lẩn trốn của các mùa
Tôi từng yêu em
Trong cơn giông của nhựa
Tôi đang yêu em
Trong bóng tối của năm
Tôi từng yêu em
Trong khu vườn bình minh
Tôi đang yêu em
Lúc tháng ngày tàn tạ
Tôi từng yêu em
Trong vầng dương hối hả
Tôi đang yêu em
Trong bóng chiều bao dung
Tôi từng yêu em
Trong ánh chớp lời nói
Tôi đang yêu em
Trong cửa ngõ ngôn từ
Tôi từng yêu em
Trong cơn bốc đồng mùa xuân
Tôi đang yêu em
Trong sự lẩn trốn của các mùa
Tôi từng yêu em
Ngay trong lòng cuộc sống
Tôi đang yêu em
Tại nơi cổng thời gian.
(Nguồn: www.recoursaupoem.fr - www. toutelapoesie.com)
(TCSH46SDB/09-2022)
Triết học đôi khi được hiểu như là “nghệ thuật sống” và quả thật, điều này đúng. Nhưng cũng có những lý do để tin rằng triết học có thể còn là “nghệ thuật chết”.
BORIS CHEKHONIN
Địa điểm là ở khu Tam giác Vàng, những câu chuyện không phải là nói về CIA, những tên gián điệp, những viên chức chính quyền địa phương thối nát hoặc những nhân vật quen thuộc khác. Thời thế đã thay đổi. Băng-cốc đang phát động cuộc chiến chống lại chất na-cô-tic.
L.T.S: Năm 1985 lần đầu tiên ở Pháp độc giả mới biết có một kịch bản văn học của Jean Paul Sartre viết từ 1959 mang tựa đề "Sigmund Freud hay là Bản giao kèo với quỷ sứ". Gần đây báo Văn học Xô viết số 22 tháng 6-1988 đã đăng kịch bản văn học đó kèm với bài viết của giáo sư A.Belkin - tiến sĩ y học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tâm lý - nội tiết - thuộc Viện tâm thần học MOCKBA. Sau đây Sông Hương xin giới thiệu với độc giả kịch bản J.P.Sartre và bài viết nói trên của giáo sư tiến sĩ A.Belkin.
PANKAJ MISHRA - BENJAMIN MOSER
Ở chuyên mục Bookends hằng tuần, sẽ có hai nhà văn đứng ra giải đáp các vấn đề đặt ra với thế giới sách. Xưa, Ezra Pound từng khích lệ đồng nghiệp: “hãy làm mới”. Tuần này, Pankaj Mishra và Benjamin Moser tranh luận xem ngày nay liệu có bất kỳ sự mới lạ thật sự nào còn lại cho các nhà văn khám phá.
Hơn 50 năm vừa viết văn vừa làm báo đã làm cho nhà văn Graham Greene trở thành một người nói tiếng nói của quần chúng trên thế giới.
LISANDRO OTERO
Cách đây mấy tháng ở Thủ đô Buenos Aires (Argentina) một hội nghị các nhà văn quốc tế đã được tổ chức, để thảo luận về đề tài tiểu thuyết sẽ ra sao vào thế kỷ hai mươi mốt sắp sửa đến.
Sakharov sống trong một tòa nhà đồ sộ và không mấy vui vẻ ở Matxcơva. Tòa nhà do những tù nhân chiến tranh Đức thiết kế và xây dựng trên những công trường đã bị ném bom suốt thời chiến tranh.
PATRICK MODIANO
(Phát biểu ngày 7/12/2014 tại Hàn lâm viện Thuỵ Điển ở Stockholm của Patrick Modiano, Giải Nobel Văn học 2014)
Mọi thông tin liên quan tới người được nhận giải Nobel sẽ chỉ được Viện hàn lâm Thụy Điển tiết lộ sau 50 năm. Giờ đây, sự thật về nhà văn duy nhất từng từ chối giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh đã được công bố.
Nhà văn người Mỹ F. Scott Fitzgerald - tác giả của cuốn tiểu thuyết kinh điển “Gatsby vĩ đại” - đã viết thư tay cho con gái trong ngày đầu năm. Lá thư dành cho một cô bé, nhưng khiến người lớn cũng phải suy nghĩ.
Trong năm nay, một nhà văn vĩ đại của Mỹ Latinh - Gabriel Garcia Marquez - đã qua đời. Ở đất nước Colombia quê hương ông, người ta đang chuẩn bị cho ra mắt hàng loạt tờ tiền có in hình chân dung nhà văn để mọi thế hệ người Colombia đều sẽ biết và nhớ về ông.
NGUYỄN VĂN DŨNG
Thời trai trẻ tôi yêu nước Nga qua tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoi. Lớn lên tôi càng yêu nước Nga hơn bởi lịch sử hào hùng và nền văn hóa phong phú với những con người Nga nhân hậu, dễ thương. Nay về già, tôi quyết tâm đi thăm nước Nga cho bằng được. Tất nhiên Moskva là chọn lựa đầu tiên.
TRẦN HUYỀN SÂM
LGT: Giải Goncourt ở Pháp 5/11 vừa qua, đã vinh danh cho bác sĩ, nữ văn sĩ Lydie Salvayre, với tác phẩm Pas Pleurer/ Đừng khóc.
VĨNH THƯ
Trích ý kiến trao đổi về tình hình đổi mới công tác văn học nghệ thuật giữa đoàn cán bộ lãnh đạo văn hóa văn nghệ Việt Nam nghiên cứu học tập tại AOH (Viện hàn lâm khoa học xã hội trực thuộc TW Đảng cộng sản Liên Xô) với Ban thư ký và một số nhà văn Liên Xô.
Interstellar, bộ phim khoa học giả tưởng vừa ra mắt tháng 11 vừa qua của đạo diễn Christopher Nolan về hành trình tìm kiếm một trái đất khác - một ngôi nhà mới cho loài người, đã khiến khán giả trầm trồ, kinh ngạc và cảm động bởi nhiều yếu tố khác nhau: kỹ xảo điện ảnh đỉnh cao, cốt truyện đầy tính khoa học hấp dẫn, thông điệp đáng suy ngẫm về tình yêu và mối quan hệ của con người với Trái đất. Nhưng có lẽ ấn tượng mê hoặc nhất về bộ phim là hình ảnh hố đen (black-hole) và lỗ sâu (worm-hole) giữa vũ trụ mà đoàn làm phim đã mô phỏng - một kết quả tuyệt vời của sự cộng tác giữa khoa học và nghệ thuật.
Khác với mọi lần, năm nay, tin nhà văn Pháp Patrick Modiano được Viện Hàn lâm Thụy Điển chọn trao giải thưởng Nobel Văn học có phần làm cho báo chí, truyền thông ngoài nước Pháp ngỡ ngàng.
Tiến sĩ tâm thần học Brian L. Weiss kể về quá trình điều trị cho một bệnh nhân nhớ được tiền kiếp.
Sử gia kiêm nhà văn Italy Angelo Paratico vừa công bố một nghiên cứu mới gây sửng sốt, cho rằng mẹ danh họa Phục hưng Lenardo da Vinci (1452-1519) có thể là một nô lệ người Trung Quốc.
Theo nghiên cứu mới đây của nhà sử học, tiểu thuyết gia người Italy Angelo Paratico, mẹ của Leonardo da Vinci có thể là một nô lệ người Trung Quốc.