LÝ HOÀI THU
Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.
Nhà thơ Đoàn Văn Cừ - Ảnh: internet
Cũng như Nguyễn Khuyến và Nguyễn Bính - hai nhà thơ đồng hương nổi tiếng, thơ Đoàn Văn Cừ in đậm dấu ấn đặc trưng của đời sống và thiên nhiên xứ Bắc: từ một ngôi Làng, Người làng, Đồng làng, Tục làng đến phiên Chợ làng vào xuân, lễ Tế thánh, Đêm trăng xanh; từ một căn Nhà tranh, một Xóm nhỏ đến một Ngôi đình, một con Đường về quê mẹ; từ Ngày mùa, Đám hội đến Đám cưới mùa xuân, Chơi xuân; từ một Bữa cơm quê đến Chợ Tết;… Rồi bình minh, nắng xuân, trăng hè, gió thu, đêm đông; rồi sáng, trưa, chiều, tối; rồi trâu, bò, gà, vịt, vv và vv… Có thể thấy, với Thôn ca, một lần nữa, cảnh và người vùng nam Bắc bộ đã được thị giác hóa bởi một lối viết đặc biệt nhạy cảm trước sắc màu, hình ảnh, một thứ thơ rất gần với hội họa, mang tính họa. Chính vì lẽ đó, trong Thi nhân Việt Nam, khi xếp Đoàn Văn Cừ vào nhóm thơ tả chân (gồm Nam Trân, Anh Thơ, Bàng Bá Lân,…), Hoài Thanh đã khẳng định: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ”.
Là một hồn thơ được nuôi dưỡng bằng những tình cảm hồn hậu, mộc mạc, ấm áp và chân tình ở chốn làng quê, thơ Đoàn Văn Cừ, do vậy, cũng mang nhiều nét trong trẻo, lành mạnh, tươi sáng và thấm đẫm bản sắc Việt. Đường viền không gian và thế giới nghệ thuật của tập thơ dường như chỉ được bao bọc bởi khuôn viên làng, một hình ảnh thân thuộc trong tâm thức người Việt - những cư dân của nền “văn minh lúa nước”:
Làng tôi: mươi chục nóc nhà tranh
Một ngọn chùa cao, một nóc đình
Một rặng tre già vươn chót vót
Một dòng sông trắng chảy vòng quanh…
Cứ thế làng tôi tháng lại năm
Sống bên ruộng lúa, cạnh ao đầm,
Đời như mặt nước ao tù lắng,
Gió lạ không hề thổi gợn tăm
(Làng)
Dễ nhận thấy ở đây sự giao thoa giữa Đoàn Văn Cừ với Nguyễn Khuyến - nhà thơ số một của làng cảnh Việt Nam - trong sự cảm nhận, chọn lựa và khắc họa những bức tranh quê đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ (vùng chiêm trũng): Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo/ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo (Thu điếu); Năm gian nhà cỏ thấp le te/ Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe/ Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt/ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe (Thu ẩm)… Việc thiếu vắng những hình ảnh núi cao, sông rộng, những “sơn thủy hữu tình”, non xanh nước biếc… cho thấy sự chi phối của những đặc điểm riêng trong mô hình cấu trúc không gian văn hóa vật thể, của hệ sinh thái môi trường, địa lý, đến cái nhìn nghệ thuật và đặc sắc thi pháp của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên mà những “điểm nhấn” trở đi trở lại khá nhiều trong thơ của cả hai ông là chiếc ao làng, cầu tre ruộng lúa, những gian nhà cỏ mái rạ vách bùn, những ngõ tối quanh co, cồn xanh bãi tía… Dĩ nhiên giữa hai người là một khoảng cách thời gian dài, là hai thế hệ thi nhân với sự khác biệt về tâm hồn và “cách biểu đạt tâm hồn”. Thơ Nguyễn Khuyến nhiều tâm sự, nỗi niềm nhưng trầm mặc và lắng đọng. Đoàn Văn Cừ là nhà thơ thuộc Phong trào thơ mới, trẻ tuổi và trẻ lòng. Những nét vẽ trong thơ ông giàu cảm xúc, truyền tải phong vị dân gian thuần khiết, hồn nhiên và tươi sáng. Mỗi bài thơ là một cuốn “phim mi-ni”, một bức tranh với nhiều gam màu nổi bật và đường nét sinh động về cảnh quê lẫn hồn quê đất Việt. Bài Chợ Tết mở đầu bằng những phác thảo viễn cảnh:
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết
Và dừng lại ở sự đặc tả những chi tiết tươi vui, ngộ nghĩnh:
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu…
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc ao the xanh…
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết
Con gà trống mào thâm như cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem…
Nhiều bài thơ khác trong Thôn ca như Trăng hè, Thu, Mùa xuân, Đám hội, Đám cưới mùa xuân, Đàn gà vịt, Đêm trăng xanh, Nét chấm phá,… đều được tạo dựng bởi sự xếp đặt sắc màu và lắp ghép hình ảnh. Song, tất cả dường như không theo một trật tự kết cấu hài hòa, chặt chẽ của thi pháp cổ điển mà có sự mở rộng kích thước theo nhịp điệu tâm trạng. Cùng được tắm gội trong bầu không khí của văn hóa Folklore nhưng nếu như Nguyễn Bính luôn có sự giằng co, phân thân giữa thôn dân và thị dân, sự “dan díu” giữa đô thành và làng mạc… và những bài thơ viết về: “Hội chèo làng Đặng”, “Hội làng”, “Quan trạng”, “Truyện cổ tích”… đều gắn với hai nhân vật trữ tình là “anh” và “em”, suy cho cùng nó vẫn là câu chuyện của tình yêu đôi lứa: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ/ Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”/… Chờ mãi anh sang anh chẳng sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng/… Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày/ Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ/ Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày” (Mưa xuân); thì đời sống nội tâm của Đoàn Văn Cừ có phần nhẹ nhõm, hồn nhiên và tươi trẻ hơn. Nhiều bài thơ như một tự sự nhỏ, hướng đến tâm lý “cộng đồng” mà ít phần riêng tư, cá nhân. Ngay cả nụ cười dí dỏm ẩn giấu sau mấy câu thơ:
Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát
Một chị đang du ngửa tít trên không,
Cụ lý già dừng lại ngửa đầu trông
Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh
(Đám hội)
thì nó vẫn là cái nhìn ngây thơ, trong sáng, hòa quyện vào niềm vui tập thể trẻ trung, sôi động mà thanh thản. Cảnh vật và thiên nhiên trong thơ Đoàn Văn Cừ ít mang sắc thái “ngụ tình”. Có lẽ một phần do Thôn ca chưa có những bài thơ tình đúng nghĩa (Bài Lá thắm chỉ là sự gửi gắm xa xôi…). Thế giới nhân vật đám đông, già, trẻ, gái, trai… trong Thôn ca hiện lên mộc mạc, vô tư và tự nhiên gần gũi. Họ là con người của những cuộc vui, từ dáng điệu đến gương mặt, ánh mắt, nụ cười long lanh “ngũ sắc” đều gắn với không khí phấn chấn, tưng bừng của lễ hội. Đó thực sự là những bức tranh dân gian tươi tắn, nhiều màu, đầy sức sống; là sự biểu thị những hằng số văn hóa của một vùng đất đai, xứ sở ẩn chứa nhiều trầm tích.
Thơ Đoàn Văn Cừ thiên về bút pháp tả thực và hệ thống hình ảnh, chi tiết khá rườm rà trong thơ ông, vì vậy, mang đậm tính trực quan. Những phong tục tập quán lâu đời, những ký ức, hoài niệm tưởng đã lùi chìm vào dĩ vãng xa xăm, dưới ngòi bút miêu tả tỉ mỉ của ông trở nên cụ thể, sinh động, có hình, có nét:
Tết: bánh chưng xanh xếp chật nồi
Con vàng sợ pháo chạy cong đuôi
Cô nào đi lễ khăn vuông mới
Chiếc yếm đào trông đến đẹp tươi
(Làng)
Hoặc:
Nhà có con trai mới vấn danh,
Sang chơi nhà gái kết thân tình.
Đầu năm lễ tổ: con gà trống
Ngày tết mùng Năm: thúng đỗ xanh…
Chùa xóm làm ngay ở mé ngòi
Trong ba ngày Tết cũng gà xôi,
Cúng xong các cụ chia gà biếu:
Bốn cụ ngồi trên biếu bốn đùi
(Tục làng)
Những phạm trù thời gian: sáng, trưa, chiều, tối; những xuân, hè, thu, đông vốn trừu tượng, vô hình đã được Đoàn Văn Cừ hữu hình hóa bằng một làn khói, một màu mây, một vòm trời, một tia nắng, một cánh buồm, một hàng tre hút gió… Tuy nhiên, bên cạnh phương thức tạo lập thế giới nghệ thuật thơ bằng hệ thống hình ảnh thiên về “tả chân”, thi thoảng tư duy thơ Đoàn Văn Cừ đột ngột chuyển hóa vào những liên tưởng giàu sức gợi, mang đậm tính thơ và ý nghĩa khái quát:
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau
Đó là hai câu thơ thăng hoa từ vô số những chi tiết thực mang “dáng dấp văn xuôi” (kể và tả) của bài Chợ Tết. Những câu thơ được đánh giá là độc đáo bậc nhất của Đoàn Văn Cừ không chỉ ở sự mới lạ của trí tưởng tượng mà còn ở độ kết tinh, hóa thạch, ở khả năng thị giác hóa biểu tượng văn hóa tâm linh và dòng chảy thời gian - đời người. Ở một số bài thơ khác và từ một cấp độ khác, Đoàn Văn Cừ cũng tạo được những cái kết thúc khá ấn tượng cho bài thơ mà Hoài Thanh gọi đó là những câu thơ “khép lại một thế giới và mở ra một thế giới: khép lại một thế giới thực, mở ra một thế giới mộng” (Thi nhân Việt Nam):
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng
(Đám cưới mùa xuân)
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ
(Chợ Tết)
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ
(Trăng hè)
Cũng cần phải nhấn mạnh thêm, nhờ có kiểu kết đó, bài thơ chứa đựng nhiều tâm trạng, giàu sức biểu hiện hơn. Và sâu xa nữa là sự đồng điệu về tâm hồn, về những cung bậc cảm xúc giữa Đoàn Văn Cừ với những nhà thơ cùng thế hệ. Một thoáng bâng khuâng, man mác, phảng phất buồn… Có nghĩa là, mặc dầu vắng bóng những “chàng - nàng”, “tài tử - giai nhân”… nhưng trước sau Đoàn Văn Cừ vẫn là nhà thơ của trào lưu thơ ca lãng mạn và Thôn ca - tác phẩm đầu tay tạo nên tên tuổi - là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Người phương Đông khẳng định: “Thi trung hữu họa”. Đó là sự đúc kết đặc tính của văn bản, là vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật thơ. Thôn ca của Đoàn Văn Cừ ngập tràn sắc màu (đỏ, vàng, tím, xanh, nâu, trắng, lam hồng, đỏ rực, xanh ngắt, xanh cánh trả, trắng phau phau…) và nhộn nhịp hình bóng con người (bà cụ lão, cụ lý già, thằng em bé, cô gái xứ quê, người cô dâu, “bọn” đô vật, anh bán pháo, bác lái trâu, chị sen, ông Đội…). Đó là một thứ ký hiệu riêng, một “kỹ thuật” viết coi trọng sự quan sát trực giác, một lối thơ “nói” bằng sắc màu, hình ảnh, tạo ấn tượng mạnh về thị giác và là một yếu tố nổi bật trong phong cách thơ Đoàn Văn Cừ.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày tập thơ ra đời, Thôn ca đã lưu giữ được rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống cùng cái “nhịp nhàng” của đời sống dân quê thời xưa. Chính vì vậy, trên thi đàn dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, Thôn ca có một vị trí không thể thay thế và nhà thơ Đoàn Văn Cừ vẫn mãi là một gương mặt khả ái, độc đáo của Phong trào thơ mới và rộng hơn là thơ Việt Nam hiện đại.
L.H.T
(SH303/05-14)
NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.
NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.
HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.
NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.
HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.
ĐOÀN TRỌNG HUY
Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.
NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.
THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.
TÙNG ĐIỂNLTS: “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.
PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.
PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.
TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).
HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).
VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.
TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.
LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.