Alphabet và trò chơi hình học của Điềm Phùng Thị

16:57 12/08/2008
LÊ THỊ MỸ ÝNhiều người ví Điềm Phùng Thị, nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Việt Nam thế kỷ XX, người đã được ghi danh trong từ điển Larrouss là "chiếc cầu nối "Đông Tây trong một cuộc hội thoại siêu ngôn ngữ. Bởi rõ ràng, Điềm Phùng Thị đã mang Việt trong những dáng hình tạo khắc đi vào mỹ thuật thế giới và từ đó lại trở về với chúng ta bằng thứ ngôn ngữ mới - ngôn ngữ những mẫu tự được ví như các chữ cái alphabet trong trò chơi hình học.

Con đường sáng tạo của Điềm Phùng Thị tất nhiên, không thể chỉ nói đến thế giới ngôn ngữ 7 mẫu tự, mặc dù đó chính là điều đã làm nên sự khác biệt giữa chị với ngôn ngữ tạo hình nói chung.
Khởi điểm ở chặng đường đầu tiên, Điềm Phùng Thị lựa chọn cho mình góc nhìn đậm chất nữ tính. Nếu hiểu theo nghĩa tương đối, cách nhìn này ít nhiều đã có những dấu ấn riêng, khẳng định tài năng điêu khắc của Điềm Phùng Thị trong mảng sáng tác thứ nhất. Ở mảng này, quan điểm thẩm mỹ về sự hài hòa, gợi cảm từ thân thể người phụ nữ, cảm thức tươi mát, trinh nguyên và tinh tế được thể hiện bằng các hình thể đã đơn giản hóa đến mức cao độ, dự báo một phong cách mang tinh thần trừu tượng với những khái niệm tính siêu việt. Nhưng khối hình và đường nét uyển chuyển mềm mại, chủ yếu mô phỏng các hình tượng thường thấy trong đời sống hay đề tài chân dung như nét môi cong trong "Chân dung người bạn" (đất nung) bí ẩn tựa nụ cười nàng MonaLisa thời Phục hưng hay chất đồng đen "Trầm tư", "Trái đất" (đồng), dáng "Cau trầu " (đất nung) phồn thực và đôi chỗ có sự cường điêụ hóa... đều ẩn chứa sự nhạy cảm diêụ kỳ, phảng phất nét huyền bí Đông phương. Âm vang của sự huyền bí ấy như một cội nguồn căn nguyên ăn sâu trong tiềm thức và đi vào những tiết tấu hình thể, ký thác trong tư duy của Điềm Phùng Thị, để dẫu có đi xa đất nước, những hình thể tinh túy chắt lọc đến mức cô đọng vẫn giúp chị khái quát thành những "thành tố đơn giản, dễ làm, tránh được nguy cơ biến dạng" (lời tự bạch của Điềm Phùng Thị), là những mẫu tự alphabet trong mảng sáng tác thứ hai.
Mảng sáng tác thứ hai, thế giới được gọi tên bằng "ngôn ngữ Điềm Phùng Thị" không phải là kết quả của sự tìm tòi may mắn ngẫu nhiên. Từ chất dân gian hồn nhiên rất Việt Nam trong "Ra trận vác vợ theo" (đồng - 1963) hay những tác phẩm có dáng vẻ kỷ hà hoang sơ của nghệ thuật phương Tây cổ đại như " Thần Điểu" (đá - 1968) đến các tác phẩm gần chất hiện đại như "Người đàn bà Nhật Bản" (đồng đánh bóng - 1963) đã thấy sự manh nha những hình khối, tiền đề cho sự ra đời các mẫu tự hay cách sắp xếp không gian của Điềm Phùng Thị. Ở đây, để làm nổi bật cấu trúc alphabet trong trò chơi hình học của nhà điêu khắc, người viết chỉ xin phác thảo sơ lược một vài đặc điểm nhỏ vốn đã tựu thành phong cách sáng tác của chị.
Phải khẳng định các tác phẩm của Điềm Phùng Thị phần lớn được lắp ghép theo những cấu trúc cơ bản của design thị giác. Chính điều này cũng đã khiến R. Congiat, nhà phê bình mỹ thuật Pháp phát biểu trên tờ "Le Figaro" nhân dịp triển lãm đầu tiên của Điềm Phùng Thị là "các tác phẩm của chị mang giá trị thần bí của nghệ thuật đồ họa...". Nếu như "Thủy thần" (đồng) là những modul được sắp đặt theo một trật tự tuyến tính tạo nên những lớp sóng đều đặn của chuyển động hình khối thì "Chi tiết tường sinh động" (nhựa tổng hợp và bê tông) lại là những mẫu tự được nối kết theo mạng, tạo ra hiệu quả thẩm mỹ từ những xâu chuỗi hình khối và chất liệu tưởng chừng khô cứng. Tương tự như vậy, các quy luật sắp xếp modul theo nhóm, tập trung hay lối tiệm biến, khai thác vai trò của ánh sáng và hiệu quả lực thị giác đều giúp cho những "chữ cái" cất lên tiếng tư duy của tác giả.
Tiếng nói các mẫu tự alphabet làm nên thế giới Điềm Phùng Thị cũng có sự góp phần đáng kể của chất liệu. Từ mảng sáng tác thứ nhất đến mảng sáng tác thứ hai, Điềm Phùng Thị thể nghiệm nhiều chất liệu để từ đó thường xuyên sử dụng kết hợp một cách khéo léo các chất bề mặt với nhau, nhấn mạnh những ấn tượng, điểm nhấn trung tâm trong một mô hình tác phẩm. Ở những tác phẩm sử dụng một chất liệu như "Chắp tay" (chì gò), "Chim đại bàng" (gỗ sơn đen) hay các tác phẩm dùng kết hợp nhiều chất liệu như "Chim hòa bình" (đất nung và đồng) dễ thấy giữa tương quan các yếu tố là sự uyển chuyển bố cục và chất liệu trong hình thái giản lược các modul. Đặt trong sự uyển chuyển bố cục, những tác phẩm của Điềm Phùng Thị, đặc biệt là các tượng đài đều có chung một đặc điểm về cấu trúc không gian. Với những modul giản lược vừa mang dáng dấp kỷ hà, vừa có tính biểu tượng như những khái niệm rất phù hợp với không gian kiến trúc Châu Âu hiện đại cũng như tinh thần duy lý phương Tây, các tác phẩm của chị đã cấu thành và nổi bật cùng không gian thiên nhiên, biến không gian thiên nhiên trở thành mẫu tự thứ tám trong một thế giới riêng biệt của người nghệ sĩ. Mặt khác, điều làm cho tác phẩm của Điềm Phùng Thị không xa lạ với tư duy cảm tính phương Đông, đặc biệt "Việt Nam" hơn tất thẩy những gì thuần Việt, đó là sự thể hiện những dạng thức hướng nội. Điều này càng dễ nhận thấy hơn ở những tác phẩm mang tư tưởng triết lý và những chiêm nghiệm tâm linh như "Im lặng" (gỗ), "Cầu nguyện" (đá ngọc), " Cổng hư vô" (gỗ)... có thể đó cũng là những modul cách điệu từ dáng mái chùa cong, một chiếc cân đai mũ quan triều Nguyễn - chốn cố đô đã sinh thành ra chị hay một vầng trăng non lưỡi liềm, một chiếc thuyền lá trên bờ Hương, góc tam giác thu nhỏ hình Kim tự tháp Ai Cập... nhưng dù gợi tưởng như thế nào đi nữa vẫn thấy điểm chung giữa các tác phẩm là cách thức tổ hợp các mẫu tự theo một trục thẳng, hướng tâm, hướng lực, toát yếu lên tinh thần an nhiên tĩnh tại, cân bằng và ổn định như tâm thế người phương Đông giữa lòng châu Âu hiện đại. Đặc biệt, sự khai thác phá cách triệt để khối rỗng (khối âm) vốn là phát hiện độc đáo của nhà điêu khắc nổi tiếng H. Moore và lồng ghép những khoảng tối sáng, thổi vào các khối rỗng - đặc tả ý nghĩa tạo hình tương đương càng củng cố thêm yếu tố trừù tượng hiện đại cũng như đi vào lối cảm nhận gián tiếp của người Việt Nam. Từ cách sắp đặt các mẫu tự trong không gian như những đường cắt hình học với cấu trúc lôgic đậm tính vi biến, các mẫu tự alphabet của chị thực sự đã tạo dựng một trò chơi giưã không gian hài hòa hai khối âm - dương, sáng - tối. Bản thân trong số các mẫu tự của chị, Điềm Phùng Thị cũng lưu ý tập hợp một vài khối rỗng và từ các khối đó có thể lắp ghép thành nhiêù tác phẩm độc đáo như " Thế chào võ sĩ" (đá ngọc) hay "Ba vòng đá" (đá)...
Một thế giới có tiếng nói riêng, có mẫu tự riêng được tạo dựng giữa lòng châu Âu thế kỷ XX và trong cảm thức trân trọng sâu lắng của người Việt Nam thật khó có thể phác thảo tổng quan và cụ thể chỉ qua một vài đặc điểm. Trên đây chỉ là những lát cắt từ các hình khối đơn nhất và đa phức hợp của Điềm Phùng Thị, nhất là từ các mẫu alphabet vẫn thường được người xem "cảm" nhiều hơn là tìm hiểu, để ký thác lại tiếng nói những trò chơi hình học và các hình thể đã làm nên thế giới ấy.
Huế, tháng 2/ 2002.
L.T.M.Y

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG DIỆP LẠC

    Bước vào văn đàn bằng tập truyện ngắn với những ám tưởng về màu đỏ của máu, tiếp theo là âm thanh tiếng reo của lửa trong tập truyện ngắn thứ hai, Lê Minh Phong đã phần nào khẳng định được tâm thế sáng tác trước mịt mù cơn lốc thông tin.

  • ĐẶNG MẬU TỰU 

    Khi còn là thủ phủ xứ Đàng Trong của các Chúa Nguyễn và các triều Vua nhà Nguyễn sau này, Huế đã huy động, thu hút những tinh hoa từ Bắc chí Nam về để phục vụ cho triều đình cũng như để phô diễn tài nghệ của mình.

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Tranh của họa sĩ Trương Bé chưa nhiều. Sau hai mươi năm kể từ khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội, số tranh anh vẽ khoảng chừng hai chục bức. Nhưng người xem tranh luôn luôn bị đột ngột về bước đi của anh.

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Bước vào nghệ thuật tạo hình ở tuổi bốn mươi, tuổi bước qua ngưỡng thanh xuân để trở về với chiêm nghiệm và tĩnh lặng, Điềm Phùng Thị đã khiến giới tạo hình thế giới phải quay đầu dừng lại, người xem như bị thôi miên bởi tác phẩm của bà.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Năm 1973, ở quán cà phê ông Thân sát Tôn Nhân Phủ - chiếc quán nghèo gần như để dành riêng cho sinh viên hai trường Cao đẳng Mỹ thuật, Quốc gia Âm nhạc, giới nhạc sĩ, họa sĩ và những người yêu thích nghệ thuật ở Huế - lẫn trong những khuôn mặt quen thuộc, có một khuôn mặt lạ, say sưa nói về ước vọng của đời mình "sống chết cũng làm cho được mười tượng danh nhân tầm cỡ của Việt Nam", "mỗi bức tượng phải là một khuôn mặt rất đặc trưng của danh nhân".

  • Những cuộc “về lại”

    HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

  • TRẦN PHƯƠNG KỲ

    Níu vai phố rộng xin về.
    Với cây lá trút với hè nắng rung

                          BÙI GIÁNG

  • Tôn Nữ Kim Phượng sinh năm 1941 tại Phú Cát, Huế. Tốt nghiệp khóa 2 Cao Đẳng Mỹ Thuật - Huế (1958 - 1962). Huy chương Danh dự do Viện Đại Học Huế trao tặng (1959). Chị mất ngày 25 tháng 8 năm 2000 tại Huế, thọ 60 tuổi. Gia đình gồm 8 anh chị em. Phượng là con gái út sau này đi tu là Thích Nữ Diệu Trang, pháp danh Nguyên Nghi. Thân sinh là ông Bửu Hộ. Thân mẫu là bà Đặng Thị Lý Vinh. Hiện nay bà chị đầu Tôn Nữ Túy Nhạn đang trông coi một ngôi chùa Việt Nam ở Connecticut, gần New York - Hoa Kỳ.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Ký ức là khoảng không gian của quá khứ, là phạm trù thuộc về cái đã qua. Nhưng chính ký ức sẽ báo hiệu một điều gì sắp đến, có thể là cơn bão tương lai, một trận đại hồng thủy hay một sự tan biến vào hư không. Cũng như những giấc mơ trong cuộc đời, dù đã thuộc vào quá khứ, nhưng nó lại hàm ngụ dự báo cho một tương lai vui buồn. Tất cả không nằm ngoài những mắt xích nhân quả.

  • LGT: Điềm Phùng Thị tên thật là Phùng Thị Cúc. Sinh năm 1920, tại miền Trung. Hồi còn nhỏ học ở Huế và Hà Nội. Tốt nghiệp bác sĩ giải phẫu nha khoa tại Đại học Y khoa Paris (Pháp). Học điêu khắc từ 1959 - 1963.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Trong lịch sử phát triển của loài người, có sự đóng góp không nhỏ của loài ngựa. Ngựa là con vật chuyên chở mọi thứ của con người trên con đường tìm kiếm giấc mơ thần thoại của mình.

  • Trong kho tàng di sản vật thể và phi vật thể mà triều đình nhà Nguyễn để lại, tranh gương là một dạng di sản khá đặc biệt, vừa mang tính vật thể, lại vừa phi vật thể và được đánh giá là loại hình mỹ thuật mang bản sắc riêng của Huế bởi xuất xứ, cách thể hiện cùng chất liệu độc đáo của chúng. Có giá trị về mặt mỹ thuật cũng như lịch sử, thế nhưng hiện nay, di sản này đang đối mặt với nguy cơ thất truyền khi số lượng tranh hư hỏng rất lớn mà việc phục hồi lại gặp nhiều khó khăn. 

  • HUỲNH HỮU ỦY

    Rồng là một hình tượng hết sức phổ biến, đặc biệt gắn liền với Lân, Qui, Phượng trong đồ hình tứ linh trong nghệ thuật trang trí cổ.

  • VIỄN PHƯƠNG

    Đối với Kandinxky thì hội họa là sản phẩm của một sự căng thẳng trong nội tâm, phải ghi lại trạng thái tâm hồn chứ không phải là thể hiện vật thể.

  • VŨ TRƯỜNG GIANG  

    Ở gần cửa chánh Tây, ngày ngày người ta nghe thấy những nhát đục rộn ràng, khắc khoải len vào trong từng vỉa gạch âm thầm qua năm tháng. Người ta có thể đón một bình minh với những tiếng đục khoan thai chào ngày mới hay một đêm thâu văng vẳng tiếng chạm trên những thớ gỗ vô hình lẩn sâu trong trí tưởng.

  • ĐẶNG MẬU TỰU

    Có những dự định rồi lần lữa mãi không thành. Có những việc tình cờ mà thành. Chuyện ảnh Nude của nhà nhiếp ảnh Nghệ thuật Thái Phiên tiếng tăm lừng lẫy, ra sách ảnh và trên mạng cũng đã quen với các tác phẩm của ông.

  • TRẦN LÂM BIỀN

    "Mỹ thuật thế kỷ 19 ở Việt Nam là lai căng"?! Là sản phẩm của một triều đại phản động. "Trang trí Nguyễn là vênh váo"?! Là nghệ thuật cung đình xa cách nhân dân...!?

  • VIỄN PHƯƠNG

    (Về không gian hội họa Festival Huế 2012)
     

  • BỬU Ý “Cô gái Việt Nam”, tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ của Lê Thành Nhơn, có mặt tại Huế, dựng ở công viên trước mặt trường nữ lớn nhất ở đây: Trường THPT Hai Bà Trưng, trước đây là Trường Đồng Khánh, ngày 30-04-2011.