Mấy nét về màu sắc dân tộc ở trong sáng tác của Thạch Lam(1)

15:52 19/07/2024

LÊ THỊ ĐỨC HẠNH

Thạch Lam là một trong mấy cây bút chủ chốt của Tự Lực Văn đoàn, là em ruột Nhất Linh và Hoàng Đạo, nhưng trong khuynh hướng chung ấy, sáng tác của Thạch Lam có nhiều nét riêng.

Ảnh: tư liệu

Trong đó, màu sắc dân tộc là một nét nổi lên rất đậm đặc, phong phú hơn so với sáng tác của hai anh(2) và điều ấy càng khiến Thạch Lam trở nên gần gũi với chúng ta hơn.

Văn là người, đối với Thạch Lam điều này càng quá rõ, cho nên muốn nói tới màu sắc dân tộc thể hiện trong văn phẩm Thạch Lam thì không thể không nói tới tâm hồn, tình cảm, nhận thức của nhà văn, cũng tức là nói tới vai trò quan trọng của chủ thể sáng tạo. Đương nhiên, đây là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Bởi từ yêu tha thiết dân tộc có tâm hồn hòa cảm với tâm hồn dân tộc đến việc sáng tạo ra những tác phẩm đậm đà màu sắc dân tộc còn đòi hỏi những bước chuyển hóa cần thiết. Nói cách khác còn phải chú ý đến mối quan hệ giữa tâm hồn nhà văn với quá trình sáng tạo nghệ thuật, có nghĩa là tâm hồn dân tộc của người nghệ sĩ phải hoà nhập được vào và phải toát lên từ nội dung và hình thức của tác phẩm.

* * *

Ở Thạch Lam, nhiều bạn bè nhận xét là trong cuộc sống hàng ngày, ông luôn băn khoăn "muốn sống cho ra một người dân đất Việt". Ông thích ở nhà tranh, thích dùng những đồ dùng đơn sơ, mộc mạc: ghế mây, giường gỗ, phên trúc, mành tre. Nhà ở sát ngay cạnh Hồ Tây, có cây liễu đổ nghiêng xuống gần mặt nước, do chính tay Thạch Lam trồng. Người chị của nhà văn có kể rằng: Lúc đã gần kề cái chết, Thạch Lam còn bảo chị "đẩy em lên cao một tí để em nhìn thấy cây liễu", và phàn nàn là người nhà đã chặt đi một cành rủ xuống, làm mất cả vẻ đẹp tự nhiên của cây. (3)

Thạch Lam yêu quê hương đất nước, nhất là yêu Hà Nội đằm thắm, tha thiết. Người ta thường thấy: hàng ngày, sau công việc của toà báo, Thạch Lam hay lang thang các phố, khi đi một mình, lúc cùng với bạn bè, có hôm đến hai ba giờ sáng mới về trước chợ Đồng Xuân, xem họp những phiên "chợ xanh".

Nhiều người còn nhận xét: dù uống một chén trà, hay một bát nước vối, dù nhấp một ngụm rượu hay thưởng thức một món ăn, Thạch Lam thường trầm ngâm, suy ngẫm, tỏ rõ một thái độ trân trọng, nâng niu những giá trị văn hóa tinh thần tiềm ẩn trong sự sống hàng ngày. Ông vừa như nhắc nhở mọi người, vừa như nêu lên một phương châm (cũng phù hợp với “10 điều tâm niệm” của Văn đoàn) để sáng tác: "Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây, phải có cái can đảm "mình dám là mình", và "chúng ta cứ việc diễn tả cái tâm hồn An Nam của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ mà chúng ta ấp ủ trong thâm tâm". Ông còn nhấn mạnh: "Chúng ta chỉ có thể bằng các nhà văn ngoại quốc khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn chúng ta mà thôi"(4). Và phải mang trong tâm hồn tình cảm lòng yêu dân tộc như thế nào Thạch Lam mới viết được "Chúng ta bây giờ và mãi mãi vẫn vui mừng những cái gì đã làm vui mừng ông cha ta, đau khổ những cái gì ông cha chúng ta đã xót xa, đau khổ"(5). Có thể thấy rằng, Thạch Lam muốn sống, muốn viết đúng như ý nghĩ của mình một cách chân thành. Qua sáng tác của ông, chúng ta luôn bắt gặp những hình tượng nhân vật gần gũi, quen thuộc, giàu sức sống cũng một phần vì chúng mang đậm màu sắc dân tộc.

Như trong Nhà mẹ Lê, tác giả dựng lên hình ảnh một bà mẹ Việt Nam đông con, lam lũ, chịu thương, chịu khó, yêu chồng, thương con, một thứ tình cảm chân thật, sâu sắc mà thầm lặng. Người ta chú ý đến cử chỉ Bác Lê nâng niu, yêu dấu thằng con thứ chín, không chỉ vì nó ốm yếu, xanh xao nhất nhà mà còn vì "nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc". Và cứ sau mỗi lần khoe với hàng xóm, người mẹ ấy lại ôm con ngồi lặng đi, như để nhớ đến người chồng (đã mất). Rồi cái chết của người mẹ nghèo đó (cho đi vay gạo, bị nhà giàu xua chó cắn) báo hiệu số phận của mười một đứa trẻ thơ dại, đồng thời đè nặng lên tâm tư những người ở lại trong cái xóm chợ tồi tàn. Âu cũng là một nét, một cảnh của đời sống nông thôn ta trước cách mạng Tháng Tám.

Thạch Lam thường chú ý đến những cảnh ngộ khác nhau, với những tâm tư, tình cảm, cảm xúc, cảm giác... nổi đậm những nét riêng của tâm hồn Việt Nam. Ở Tối ba mươi, ông phác họa cảnh sống của hai người con gái giang hồ vào một đêm ba mươi Tết: một căn buồng nhà xăm bẩn thỉu, một không khí lạnh lẽo bao trùm lên hai tâm hồn cô đơn, lạc lỏng, và trong họ vẫn lóe lên một thứ tình cảm trong lành vào những giây phút thiêng liêng: lúc hết năm cũ, bước sang năm mới. Như "Huệ tưởng nhớ đến những căn nhà ấm cúng và sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người trong nhà đang tấp nập sửa soạn đón năm mới trong sự thân mật của gia đình”. Rồi đến cái bàn bày lễ, cái cốc để cắm hương đều ô uế, nhơ nhớp, gợi lên sự tương phản với lòng thành kính đối với trời đất, tổ tiên, càng tô đậm nỗi chua xót của hai người phụ nữ; Quả là, con người dù ở hoàn cảnh nào cũng không quên được những phong tục, tập quán của dân tộc mình.

Ngòi bút tinh tế của Thạch Lam còn đề cập đến những người phụ nữ mà cuộc đời không có gì éo le, như "cô hàng xén" một cách trân trọng, mến thương. Hơn thế, "cô hàng xén" còn được tác giả nhấn vào cái chất điển hình "có phải đâu chỉ một mình cô. Trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em”. Đẹp người, đẹp nết mà suốt đời hy sinh cho những người thân, không chút nào nghĩ đến hạnh phúc cho riêng mình, lúc nào cũng lụi cụi, buồn buồn, tẻ lặng, "toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ".

Ở đây, Thạch Lam không chỉ ca ngợi những đức tính truyền thống tốt đẹp mà chủ yếu biểu lộ sự băn khoăn, day dứt, thương cảm cho số phận của những người phụ nữ lao động Việt Nam phải sống mòn mỏi trong xã hội thực dân phong kiến trước đây. Tác giả kết thúc truyện bằng hình ảnh "nàng cúi đầu đi mau vào ngõ tối" làm người đọc không khỏi bùi ngùi, xót xa...

Xuất phát từ một ý thức rõ ràng, một cảm nghĩ dân tộc đằm thắm, chân thành, khi nói về cô hàng nước, Thạch Lam đã viết: "cô nhũn nhặn lắm, cô mặc một cái áo tứ thân cũ, giản dị và đảm đang như các cô gái Annam" (Hà Nội băm sáu phố phường). Liền đó, ông nói luôn tới "các cô hàng xén lũ lượt đi chợ Đông, chợ Đoài). Ông coi đây là "cái tinh hoa thuần túy" của người Việt Nam từ "xửa xưa đến giờ".

Nhiều khi chỉ một hình ảnh thoáng qua, một cảnh nhỏ ở sáng tác của Thạch Lam cũng những nét riêng thật ý vị, như cảnh người cháu về quê thăm bà:

“Thanh bước xuống dưới giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà chàng mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc, ở ngoài vườn vào. Thanh cảm động và mừng rỡ chạy lại gần.

- Cháu đã về đấy ư?

Bà cụ nhai trầu, đôi mắt hiền từ dưới làn tóc trắng đưa lên nhìn cháu âu yếm và mến thương". (Dưới bóng hoàng lan).

Hoặc cảnh phiên chợ tàn ở một phố huyện: "Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ấm bốc lên, nơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi, quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này" (Hai đứa trẻ).

Hoặc cảm giác của một chàng trai vào một buổi sáng ở thôn quê.

"Yên tĩnh và mát quá, một cái yên tĩnh mát hay một cái mát yên tĩnh, chàng cũng không biết nữa". Chàng quan sát từ "cái sân đất khô hãy còn vết chổi quét của mẹ chàng chiều hôm trước" đến "qua dậu thưa, thấp thoáng người đi chợ sớm, tiếng cười nói vang lên với tiếng đòn gánh kĩu kịt, vì những bì gạo nặng..." (Buổi sớm).

Có thể tìm thấy không ít thí dụ tương tự trong những truyện ngắn, cũng như truyện dài Ngày mới của Thạch Lam.

Rồi trong Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam trân trọng, nâng niu biết bao khi nói đến hàng mấy chục thứ quà mặn ngọt của Hà Nội, và chỉ Hà Nội mới tạo được cho nó một hương vị riêng một sự hấp dẫn riêng, từ "bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong như lụa", từ bát phở đầy đặn và tươm tất "nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu Bắc, giọt chanh cốm ngát lại điểm thêm một chút cà cuống thoảng nhẹ như nghi ngờ", đến món bún chả "đáng gọi là mê hồn" của Hà Nội thì đặc biệt từ sợi bún đến gắp chả, đến nước chấm và đặc sắc hơn là có rau húng láng v.v...

Vẫn một cảm thụ tinh tế, nhưng Thạch Lam dành tình cảm cao nhất dường như "thành kính" đối với những món quà đặc sản của dân tộc. Từ món đơn giản, mộc mạc như xôi cháo mà tác giả cũng viết thật gợi cảm, thú vị "cháo hoa quánh mùi gạo thơm, xôi nồng mùi nếp mới". Đến cốm thì thật không còn những dòng nào có thể tuyệt diệu hơn: "Cốm là thứ quà riêng biệt của đất nước, là thứ dân của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị, và thanh khiết của đồng quê, nội cỏ An Nam". Nhân nói đến cốm, tác giả còn suy rộng ra mà tiếc cho những thức quý của đất nước mình thay dần bằng những thứ bóng bảy, hào nhoáng và “thô kệch bắt chước người ngoài”.

Cũng không thể không nói đến công của Thạch Lam trong việc sử dụng sáng tạo tiếng nói dân tộc. Văn ông giản dị, tinh tế, nhẹ nhàng, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, nhiều khi đậm chất thơ, không nặng nề về chữ Hán như đương thời không ít người viết mắc phải. Thạch Lam đã thâu nhận và phát triển được tinh hoa của tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc nên ông luôn luôn mới mẻ, đến hôm nay vẫn gần gũi với chúng ta. Nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét: "Bằng sáng tác văn học Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt Nam gọn ghẽ hơn, phong phú thêm ra, mềm mại ra và tươi đậm hơn. Thạch Lam đã đem sinh sắc vào tiếng ta"(6). Đến Thế Uyên, thế hệ tiếp sau của gia đình Nguyễn Tường cũng một lần thốt lên "chính Thạch Lam mới là người viết văn hay hơn cả trong Tự Lực Văn đoàn". Ngay khi tập Gió đầu mùa vừa ra đời đã có ý kiến đánh giá: "Thạch Lam khiến chúng ta biết trọng và yêu mến xứ nhà, và chỉ một chỗ đó cũng khiến cho chúng ta sủng ái nhà văn chân chính ấy của đất nước ta”(7). Hoặc "Tác giả Gió đầu mùa tiêu biểu nhất cái thiên năng của chúng ta, là Annam nhất trong tất cả các nhà văn của ta"(8). Gần đây, trong Lời nói đầu Tuyển Tập Thạch Lam (XB. 1988), Phong Lê cũng viết: “Trong văn Thạch Lam có cái cảm nghĩ dân tộc tinh tế, đằm thắm”.

Có thể nói, ở sáng tác của Thạch Lam, cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm của dân tộc thấm đượm trong mỗi nhân vật, mỗi cảnh, mỗi tình tiết, mỗi ý, mỗi lời... nhiều khi chân thành cảm động, khiến người đọc cảm thấy như "có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đấy".

* * *

Vượt qua được thử thách của thời gian, chưa kể tới những đóng góp đáng kể trong việc phản ánh hiện thực với những giá trị nhân văn sâu sắc, chỉ riêng về phương diện màu sắc dân tộc đậm đà trong văn phẩm đủ để chúng ta yêu mến, trân trọng và đánh giá cao Thạch Lam, một nhà văn thực sự có tài năng.

L.T.Đ.H
(TCSH58/11&12-1993)

 

-------------------
(1) Về khía cạnh này, nhiều người cũng nhận thấy, nhưng chỉ mới nói qua trong những bài viết chung về Thạch Lam. Ở đây, chúng tôi thử phân tích và tập trung vào một số yếu tố nổi đậm trong sáng tác của Thạch Lam, mà không đi vào vấn đề lý luận về tính dân tộc.
(2) Đương nhiên là với nhiều người khác nữa.
(3) Theo Nguyễn Thị Thế, trong hồi ký về gia đình Nguyễn Tường.
(4) (5) Theo giòng. Đời nay. Saigon in 1972. Tr.25, 88.
(6) và (7): Lời nói đầu Thạch Lam (tuyển tập) - Nhà XB. Hội nhà văn 1957.
(8) Tìm kiếm Thạch Lam - Văn số 36 (15-6-1965).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.