WILLIAM SOMERSET MAUGHAM
William Somerset Maugham là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh năm 1874 tại Paris, Pháp, và là con của một cố vấn pháp luật trong tòa đại sứ Anh tại Paris.
Mồ côi sớm - khi chưa đầy mười tuổi - Somerset Maugham được một người chú làm giáo sĩ tại Kent nuôi dưỡng. Có lẽ vì hồi nhỏ ông học tiếng Pháp nên khi theo học tại các trường Anh ông mắc chứng nói lắp. Bị bạn bè chê cười, ông rất xấu hổ, tình trạng này kéo dài suốt từ thời học tiểu học tại Canterbury cho đến sau này tại đại học Heidelberg (Đức). Khi trở về Anh, ông tập sự ngành kế toán ít lâu rồi chuyển sang học ngành thuốc. Tuy tốt nghiệp y khoa ông không hành nghề trừ thời gian còn là sinh viên tập sự tại các khu lao động London. Cũng nhờ khoảng thời gian này mà ông có chất liệu để viết cuốn Liza ở Lambeth. Sau khi cuốn này được xuất bản năm 1897, ông bỏ nghề thuốc để quay hẳn sang viết văn.
Năm 1915 là năm kiệt tác Of Human Bondage (Thân phận làm người) xuất hiện, và cũng là năm ông lấy vợ. Trong Thế Chiến Thứ Nhất, ông làm trong cơ quan tình báo Anh. Ngoài những tiểu thuyết nổi tiếng như The Moon And Sixpence (Mặt trăng và đồng sáu xu - 1919), Cakes And Ale (Bánh ngọt và rượu bia - 1930), The Razor’s Edge (Lưỡi dao cạo - 1944), Catalina (1948), ông còn viết rất nhiều kịch, phóng sự, khảo luận, và truyện ngắn. Năm 1954 ông được Nữ Hoàng Elizabeth đặc biệt khen ngợi về những công trình mà ông đã đóng góp vào kho tàng văn học Anh. Ngòi bút sắc bén của ông trước những sự thật chua chát của cuộc đời khiến một số nhà phê bình gọi ông là một Maupassant của Anh quốc.
Somerset Maugham mất năm 1965, thọ 91 tuổi.
Nguyễn Đặng Hồng Chương giới thiệu và dịch
Bữa trưa
Tôi thấy bà ta trong khi xem kịch, và, để đáp lại cái vẫy tay gọi của bà ta, vào lúc giải lao tôi đã chuyển xuống ngồi bên cạnh. Lâu rồi tôi không được gặp lại bà ta và nếu không có ai đó nhắc đến tên thì chắc là tôi đã không nhận ra bà ta rồi. Bà ta vui vẻ nói với tôi:
“Ồ, lâu quá rồi mới được gặp lại ông. Thời gian trôi đi mới nhanh làm sao! Chúng ta ai rồi cũng già. Ông còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không? Lần ông mời tôi ăn trưa ấy.”
Tôi còn nhớ không ư?
Đã hai mươi năm rồi và lúc đó tôi đang sống ở Paris. Tôi có một căn hộ bé tí xíu nhìn ra nghĩa trang trong khu Latin và chỉ kiếm được vừa đủ tiền để giữ cho hồn không lìa khỏi xác. Bà ta đã đọc một cuốn sách của tôi và viết thư nói với tôi về nó. Tôi trả lời, cảm ơn bà ta, và sau đó nhận được thêm một lá thư nữa nói rằng bà ta sắp đi ngang qua Paris và mong được gặp tôi; nhưng thời gian có hạn và lúc rảnh rang duy nhất bà ta có là thứ Năm tới; bà ta sẽ qua buổi sáng ở Luxembourg và sau đó tôi sẽ mời bà ta một bữa trưa nhỏ xinh ở Foyot chứ? Foyot là nhà hàng nơi các thượng nghị sĩ Pháp đến ăn và ở quá cao so với túi tiền của tôi tới mức tôi chưa bao giờ thậm chí chỉ nghĩ đến việc tới đó. Nhưng tôi tự hào và còn quá trẻ để biết cách nói không với một phụ nữ. (Tôi có thể nói thêm rằng không mấy đàn ông học được cách này trước khi quá già không thể khiến cho điều mình nói còn chút ý nghĩa nào với phụ nữ nữa). Tôi có tám mươi franc (franc vàng) để sống đến hết tháng và một bữa trưa khiêm tốn sẽ không làm tốn quá mười lăm franc. Nếu bỏ cà phê trong hai tuần tiếp theo thì tôi vẫn có thể trang trải được khá ổn.
Tôi trả lời qua thư rằng sẽ gặp bà ta ở Foyot vào lúc mười hai giờ rưỡi ngày thứ Năm. Bà ta không còn trẻ như tôi kỳ vọng và có vẻ bề ngoài oai vệ thì đúng hơn là quyến rũ. Thực ra bà ta là một phụ nữ bốn mươi tuổi (tuổi hấp dẫn, nhưng không kích động đam mê bất chợt và tàn phá ngay từ cái nhìn đầu tiên), và tôi đã có ấn tượng rằng bà ta có nhiều răng, những cái răng trắng và lớn và đều, hơn mức cần thiết cho bất cứ mục đích thiết thực nào. Bà ta nói nhiều, nhưng vì có vẻ như thích nói về tôi nên tôi sẵn sàng làm một người nghe chăm chú.
Tôi giật mình khi thực đơn được mang ra, vì giá cao hơn rất nhiều so với mức tôi đã dự đoán. Nhưng bà ta trấn an tôi:
“Bữa trưa tôi không bao giờ ăn gì cả,” bà ta nói.
“Ồ, đừng nói thế!” Tôi hào phóng trả lời.
“Tôi không bao giờ ăn nhiều hơn một món. Tôi nghĩ ngày nay người ta ăn quá nhiều. Một con cá nhỏ, có lẽ. Tôi tự hỏi không biết họ có cá hồi không.”
Ồ, chưa đến mùa cá hồi và món đó không có trong thực đơn, nhưng tôi vẫn hỏi bồi bàn rằng có không. Có, một con cá hồi tuyệt đẹp vừa đến, nó là con đầu tiên họ có. Tôi gọi món đó cho bà khách của tôi. Bồi bàn hỏi bà ta có muốn dùng gì đó trong lúc chờ chế biến không.
“Không,” bà ta trả lời, “tôi không bao giờ ăn nhiều hơn một món. Trừ phi ông có trứng cá muối. Tôi không ngại trứng cá muối đâu.”
Tim tôi lắng xuống một chút. Tôi biết mình không kham nổi trứng cá muối, nhưng không thể nói thế với bà ta được. Tất nhiên tôi bảo bồi bàn mang trứng cá muối ra. Tôi chọn cho mình món rẻ nhất trong thực đơn và đó là sườn cừu.
“Tôi nghĩ anh không khôn ngoan khi ăn thịt,” bà ta nói. “Tôi không biết anh mong làm việc thế nào sau khi đã ăn những món nặng nề như sườn. Tôi không tin vào việc làm quá tải dạ dày mình đâu.”
Rồi đến vấn đề thức uống.
“Bữa trưa tôi không uống gì cả,” bà ta nói.
“Tôi cũng thế,” tôi đáp ngay.
“Trừ vang trắng,” bà ta nói tiếp như thể tôi chưa nói gì. “Những thứ vang trắng Pháp này thật nhẹ. Chúng rất tuyệt cho sự tiêu hóa.”
“Bà muốn uống gì?”, tôi hỏi, vẫn mến khách, nhưng không còn nhiệt tình lắm nữa.
Bà ta tặng cho tôi một tia tươi sáng và thân ái từ hàm răng trắng của bà ta.
“Bác sĩ của tôi không cho tôi uống gì ngoài champagne.”
Tôi nghĩ mình hơi tái mặt. Tôi gọi nửa chai. Tôi làm như ngẫu nhiên nhắc đến việc bác sĩ của tôi cấm tiệt tôi không được uống champagne.
“Thế anh sẽ uống gì?”
“Nước.”
Bà ta ăn trứng cá muối và bà ta ăn cá hồi. Bà ta vui vẻ nói chuyện về nghệ thuật và văn chương và âm nhạc. Còn tôi thì tự hỏi không biết hóa đơn sẽ lên đến bao nhiêu. Bà ta nghiêm túc khiển trách tôi khi món sườn cừu được mang ra.
“Tôi thấy anh có thói quen ăn trưa no. Tôi chắc chắn đó là một sai lầm. Sao anh không noi gương tôi chỉ ăn một món thôi nhỉ? Chắc chắn nhờ thế mà anh sẽ cảm thấy tốt hơn rất nhiều đấy.”
“Tôi chỉ ăn một món thôi,” tôi nói, khi bồi bàn lại mang thực đơn đến.
Bà ta vẫy ông ta sang một bên bằng một cử chỉ duyên dáng.
“Không, không, bữa trưa tôi không ăn gì cả. Chỉ một chút thôi, tôi không bao giờ ăn hơn thế, và tôi ăn để có cớ chuyện trò thôi chứ chẳng có gì. Có lẽ tôi không thể ăn gì hơn - trừ phi họ có một chút món măng khổng lồ đó. Tôi sẽ tiếc nếu rời Paris mà không được ăn một chút món đó.”
Tim tôi lắng xuống. Tôi đã trông thấy chúng trong những cửa hiệu và tôi biết rằng chúng đắt tiền kinh khủng. Tôi vẫn thường chảy nước miếng khi trông thấy chúng.
“Madame muốn biết ông có chút nào món măng khổng lồ đó không,” tôi hỏi lão bồi bàn.
Tôi cố gắng bằng tất cả sức mạnh buộc lão phải nói không. Nhưng một nụ cười hạnh phúc đã nở trên bộ mặt rộng, như thầy tu của lão, và lão cam đoan với tôi rằng họ có một chút rất lớn, rất tuyệt, rất mềm, rằng đó là một sự diệu kỳ.
“Tôi không đói tẹo nào,” bà khách của tôi thở dài, “nhưng nếu anh cố nài thì tôi không phiền ăn một chút măng đâu.”
Tôi gọi măng.
“Anh không ăn à?”
“Không, tôi không ăn măng bao giờ cả.”
“Tôi biết có những người không thích măng. Sự thật là, anh hủy hoại khẩu vị của mình bằng tất cả thịt mà anh đã ăn đấy.”
![]() |
Minh họa: HIỀN LÊ |
Chúng tôi chờ chế biến măng. Tôi hoảng loạn. Vấn đề bây giờ không phải là tôi còn bao nhiêu tiền để sống đến hết tháng, mà không biết có đủ để thanh toán bữa này hay không nữa. Thật nhục nếu thấy thiếu mười franc và buộc phải mượn tiền bà ta. Tôi không thể tự ép mình phải làm việc đó được. Tôi biết chính xác mình có bao nhiêu tiền và quyết định nếu hóa đơn cao hơn sẽ thọc tay vào túi rồi đứng bật dậy với một tiếng kêu rất kịch và nói rằng nó thủng. Dĩ nhiên sẽ rất ngượng nghịu nếu như cả bà ta cũng không đủ tiền để thanh toán. Nếu thế thì chỉ còn cách để đồng hồ lại và nói sẽ trở lại thanh toán sau mà thôi.
Măng xuất hiện. Chúng to, mọng và ngon. Mùi bơ tan cù vào lỗ mũi tôi như đồ cúng của người Semite mộ đạo cù vào lỗ mũi Jehovah vậy. Tôi nhìn người đàn bà phóng đãng kia nuốt mạnh măng xuống họng bằng những mồm đầy lớn khêu gợi và bằng cách lịch sự của mình tôi thuyết trình về thân phận của vở kịch ở Balkans. Cuối cùng bà ta cũng ăn xong.
“Cà phê chứ?” tôi hỏi.
“Ừ, chỉ một kem và cà phê thôi,” bà ta trả lời.
Bây giờ tôi cóc quan tâm nữa, nên gọi cà phê cho mình và kem và cà phê cho bà ta.
“Anh biết không, có một điều tôi hoàn toàn tin,” bà ta nói, lúc ăn kem. “Đó là sau khi ăn xong người ta luôn luôn có cảm giác rằng mình có thể ăn được thêm chút nữa.”
“Bà vẫn còn đói sao?” tôi thiểu não hỏi.
“Ồ, không, tôi không đói; anh thấy đấy, tôi không ăn trưa. Tôi dùng một tách cà phê vào buổi sáng và rồi bữa chiều, nhưng bữa trưa tôi không bao giờ ăn nhiều hơn một món. Tôi đang nói anh đấy.”
“Ồ, tôi hiểu!”
Rồi một chuyện kinh khủng đã xảy ra. Trong lúc chúng tôi đợi cà phê, người quản lý bồi bàn, với nụ cười lấy lòng trên bộ mặt giả dối, xách một làn lớn đựng đầy những quả đào khổng lồ đến chỗ chúng tôi. Chúng có màu đỏ mặt của một cô gái thơ ngây; chúng có tông sặc sỡ của một phong cảnh nước Ý. Nhưng chắc chắn chưa đến mùa đào kia mà? Chỉ có Chúa mới biết chúng đắt thế nào. Tôi cũng biết - sau đó một lát, vì bà khách của tôi, vẫn nói chuyện, đã lơ đễnh nhón lấy một quả.
“Anh thấy đấy, anh đã làm đầy dạ dày của mình bằng quá nhiều thịt” -miếng sườn nhỏ khốn khổ duy nhất của tôi - “nên không thể ăn thêm chút nào nữa. Còn tôi chỉ ăn qua loa, nên có thể thưởng thức thêm được một quả đào.”
Hóa đơn đến và sau khi thanh toán tôi thấy mình chỉ còn đủ để boa một cách rất bần. Bà ta nhìn ba franc tôi để lại cho bồi bàn một lát và tôi biết bà ta nghĩ tôi bủn xỉn. Nhưng khi ra khỏi nhà hàng tôi có cả tháng trước mặt và không còn một xu trong túi.
“Hãy noi gương tôi,” bà ta nói lúc chúng tôi bắt tay nhau, “và bữa trưa đừng bao giờ ăn nhiều hơn một món.”
“Tôi sẽ làm hơn thế nữa kia,” tôi vặn lại. “Bữa chiều đêm nay tôi sẽ không ăn gì cả.”
“Anh vui tính thật!” bà ta vừa vui vẻ kêu lên vừa nhảy vào tắc xi, “anh thật là vui tính!”
Nhưng cuối cùng tôi cũng trả được thù. Tôi không tin mình là kẻ thù dai, nhưng khi những vị thần bất tử đã nhúng tay vào chuyện thì có thể miễn thứ cho việc quan sát kết quả một cách sung sướng. Bây giờ bà ta nặng những hai mươi mốt stone (Gần một tạ rưỡi - ND).
W.S.M
(TCSH427/09-2024)
LTS: Trong 24 bài trong tập Cỏ dại của nhà văn Lỗ Tấn do GS. Trần Đình Sử dịch, Sông Hương số tháng 10 năm 2011 đã giới thiệu đến bạn đọc 3 bài “Sau khi chết”, “Sự giã từ của cái bóng” và “Sự run rẩy trên đường đồi bại”. Kỳ này Sông Hương xin giới thiệu tiếp với bạn đọc 4 bài chọn lọc từ Cỏ dại.
VILIAM KHÂYNÊXEN (Đan Mạch)
Khi Lêô tỉnh giấc, trong tai anh vẫn còn vang lên những lời của ông giáo sĩ giảng đạo.
LGT: Nhà văn, nhà nghiên cứu sử học và văn hóa Mỹ Jon Holmes sinh ra tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng công nghệ Texas nơi ông từng tham gia phong trào nhân quyền và phản chiến, Jon Holmes chuyển đến New York làm việc cho một tạp chí nhiếp ảnh và phụ trách một chương trình sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ hiện đại cho một đại công ty ở Bos- ton.
KNUT HAMSUN (*)
Do tôi viết. Viết vào ngày hôm nay cho trái tim vơi nhẹ đi. Tôi đã mất chỗ làm ở tiệm cà phê cùng những ngày sung sướng của tôi. Tất thảy mọi thứ, tôi đã mất hết. Và tiệm cà phê ấy là tiệm cà phê Mắcximilăng.
HENRY JAMES
(Tiếp theo Sông Hương số 290 tháng 4/2013)
Một buổi sáng (tôi cho là ở gần La Spezia) Harold đang vẽ bên gốc cây, không xa quán trọ, tôi ngồi cạnh, lớn tiếng đọc Shelley(18) - người có thể chứng tỏ được trìu mến hơn bất cứ ai.
ELENA PUCILLO TRUONG
Nỗi khắc khoải đã kéo dài từ bao lâu?
Có lẽ một năm. Quá nhiều. Lấy cớ đi vào toilette, hai tay tôi nắm chặt chiếc bồn rửa mặt trong nhà hàng như muốn bẻ làm đôi. Bao nhiêu bức bối đang dồn vào trong... bao nhiêu đau đớn... đau đến nỗi tôi không dám ngẩng mặt nhìn bóng mình trong gương.
Henry James (1843 - 1916), nhà văn Mỹ viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học và nghệ thuật Pháp. Ông định cư ở Londres, Anh từ 1876. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009), nội dung thể hiện ở nhiều chủ đề như: ý thức, tâm lý, mơ mộng, tình cảm, vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.
FRANÇOIS CHENG
(Trích từ tác phẩm Khi những linh hồn lang thang trở về)
Dưới gầm trời này, dưới cái gầm trời rất thấp này, tất cả đều có thăng có trầm, tất cả đều bị biến đổi. Tác phẩm về Những đột biến đã chỉ rõ điều đó, tổ tiên chúng ta đã nói: “Cứ năm năm thì có chuyển biến nhỏ, cứ năm trăm năm thì có đại đột biến”.
L.T.S: Sherwood Anderson (1876 - 1941) là nhà văn lớn của Mỹ. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, và thường tỏ thiện cảm với những lực lượng vô sản cách mạng Mỹ, đặc biệt là trong những năm 1931 - 1935. Truyện ngắn "Những ngọn đèn chưa thắp" (Unlighted Lamps) của ông dưới đây được liệt vào một trong những chuyện ngắn xuất sắc trong nền văn học Mỹ từ trước đến nay. Câu chuyện về bi kịch nội tâm của những con người không phá vỡ nổi bức tường ngăn cách giữa những tình thân và cho đến khi nhắm mắt vẫn chưa kịp thắp lên ngọn lửa thông cảm.
Elena Pucillo Truong là người Ý, Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài (Đại học Milano Italia). Cô dạy tiếng Pháp và Văn minh Pháp tại Milano từ năm 1982 và gần đây có dạy tiếng Ý tại Nhạc Viện, tại phòng lãnh sự danh dự Ý và tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM.
LGT: Etgar Keret sinh ngày 20/8/1967 tại Ramat Gan, Israel. Nhà văn nổi tiếng với truyện ngắn và kịch bản phim, có ảnh hưởng lớn tới lớp nhà văn trẻ hiện nay ở Israel.
L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.
Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.
HEINRICH BÖLL (CHLB Đức)
(Heinrich Böll sinh 1917, mất 7-85 - giải thưởng Nôbel văn học 1972)
Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.
AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)
Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.
L.T.S: LANGSTON HUGHES (1902 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch và dịch giả người Mỹ da đen, sinh ở Joplin, bang Missouri. Ông đã xuất bản 35 tác phẩm. Thơ của ông đã được dịch sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông phần lớn tập trung chủ đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giữa người da đen và da trắng tại nước Mỹ. Truyện sau đây dịch trong tập truyện "The ways of white Folks".
Hình ảnh rồng Việt Nam từ xa xưa đã sớm đi vào nghệ thuật với nhiều loại hình khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc, nhiều công trình điêu khắc lấy con rồng làm đề tài đã trở thành những tác phẩm có giá trị văn hóa, trong đó không ít công trình điêu khắc đá được xem như là những tác phẩm mang dấu ấn phong cách nghệ thuật của một thời kỳ.
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.
LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.