60 năm gian khổ và kiêu hãnh

09:10 14/10/2009
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

“Chiếc đòn gánh uốn cong”- mềm, dẻo nhưng bền bỉ đến mức; sự ngạo mạn, hùng mạnh của các triều đại đế quốc không thể bẻ gãy, không thể đồng hoá, không thể làm mai một. Lịch sử - khi đã viết ra rồi, thật giản đơn. Đó là truyền thống được tích tụ qua bao đời. Dân tộc Việt Nam là một trong rất ít các dân tộc trên trái đất này biết cách để chứng minh một chân lý: Một khi có tình yêu (Tổ Quốc), quyết tâm, dám hy sinh, sáng suốt và vững vàng trước những thách đố hiểm nghèo, không gian khó nào là không thể vượt qua.

Sự ra đời của Quân đội Nhân dân Việt Nam là cả một câu chuyện thần kỳ. Trong cái bí hiểm của núi rừng Việt Bắc, trong cái mù sương giá buốt của mùa đông, 34 người lính hàng thứ nhất chắc hẳn đã không bao giờ nghĩ rằng - ngày mai, sau nhiều năm nữa, họ sẽ là những người đầu tiên làm thay đổi cách biết, cách hiểu, cách tư duy của cả một thời đại. Được ủ ấp và nuôi dưỡng từ khởi nghĩa Bắc Sơn (27/09/1940); trưởng thành sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước (28/01/1941), với một đơn vị vũ trang nhỏ; lực lượng vũ trang Việt Nam đã ra đời với một tên gọi chưa bao giờ thấy ghi trong lịch sử: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (VNTTGPQ). Nhiều năm sau này, khi nghĩ về tên gọi đó, những người nghiên cứu lịch sử chúng tôi càng ngày càng thấm thía về sự sâu sắc trong cách đặt tên của lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh.

Là một đơn vị vũ trang, nhưng Hồ Chí Minh muốn mọi người phải hiểu rằng, nhiệm vụ - chức năng đầu tiên của đội quân cách mạng là giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Sâu xa hơn nữa, Người muốn nhắn gửi một chân lý: nhiệm vụ tuyên truyền, giải phóng nhất thiết phải gắn bó với nhân dân; quan hệ quân dân là quan hệ cá - nước, đó là sức mạnh để làm nên sự vô địch của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Vừa mới ra đời, chỉ trong hai ngày 25 và 26/ 12; VNTTGPQ đã hạ gục hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần. Đó là hai chiến thắng mở đầu cho muôn vàn chiến công vang dội sau này. Từ đây, Quyết thắng trận đầu đã trở thành một nguyên tắc, một bản lĩnh, một đặc điểm nổi bật của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Một năm sau, quân đội ta lại có vinh dự mở đầu cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám lịch sử. Cách mạng tháng Tám đã được bắt đầu từ sự kiện Việt Nam Giải phóng quân tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Đây là điều đặc biệt vì hình thái chủ yếu của Cách mạng tháng Tám là sức mạnh của chính trị. Thế nhưng, lực lượng vũ trang nhất thiết và phải, đóng vai trò nòng cốt, xung kích.

Dường như QĐNDVN là hiện thân rực rỡ và đầy đủ nhất của hai chữ Việt Nam. Vượt về phương Nam là cội nguồn, tính cách làm nên hồn Việt, sức mạnh Việt. Có lẽ vì thế nên cả hai lần nam tiến, quân đội ta đều làm nên những chiến thắng thần kỳ. Lần thứ nhất, đoàn quân Nam tiến ra đi để cùng đồng bào Nam bộ kháng chiến chống Pháp. Lần thứ hai, đi ta đi giải phóng miền Nam là tiếng gọi hào hùng của hồn sông núi; của khí phách tuyệt vời của hai chữ Việt Nam. QĐNDVN đã thực sự “Cầm cành hoa đi giữa loài người” để “đi qua thời gian” ( thơ của Chế Lan Viên).

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là chiến thắng đầu tiên của “một dân tộc nhược tiểu đánh bại một đế quốc thực dân hùng mạnh” ( Hồ Chí Minh). Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là chiến thắng cho đến nay là duy nhất của loài người trước đế quốc lớn nhất mọi thời đại. Đế quốc Hoa Kỳ chưa từng thất bại trước bất kỳ đối thủ nào, trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào(!)

Sức mạnh của QĐNDVN là sức mạnh của sự kết hợp tài tình giữa truyền thống với hiện đại. Có thể nêu ra một dẫn chứng tiêu biểu: Ngày 16/ 09/1950, quân ta nổ súng tấn công Đông Khê. Mất Đông Khê, Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Quân Pháp hoảng loạn rồi vỡ vụn trên toàn tuyến Biên Giới. 25 năm sau, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã tạo ra bước đột biến thần kỳ với một chiến công gần giống như thế. Ngày 25/03/1975, quân ta giải phóng Thừa Thiên - Huế. Huế cách Đà Nẵng 105 km. Thế nhưng, liên tiếp trong ba ngày, cùng với Huế, ta giải phóng Tam Kỳ(24/03), Quảng Ngãi(25/03), Chu Lai(26/03). Thế trận này đã biến Đà Nẵng thành cái bẫy khổng lồ nhốt chặt 10 vạn quân ngụy trong tình trạng bị cô lập hoàn toàn. Có thể nói, cách đánh đó là nghệ thuật tiến hành chiến tranh kỳ tuyệt của QĐNDVN.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tạo nên cách định nghĩa mới về sự phi thường. Nếu như hơn 20 năm trước, để giải phóng mấy chục km2 ở Điện Biên Phủ, quân đội ta phải chiến đấu ròng rã suốt 56 ngày đêm. Thì giờ đây, cũng với thời gian tương tự, ta giải phóng cả một nửa giang sơn của Tổ Quốc. Tất nhiên, “mọi sự so sánh đều khập khiễng”; chỉ có điều, nguồn cội của mọi thần kỳ tất yếu là của kết quả tích luỹ từ biết bao mồ hôi, xương máu và nước mắt...

60  năm chiến đấu gian khổ, QĐND Việt Nam anh hùng đã rút ra được những bài học bổ ích nào?

Thứ nhất, Thắng trận đầu là một nguyên tắc. Từ Phay Khắt, Nà Ngần của thời kỳ cách mạng, trận thắng lớn đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp là chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947. Đánh ngụy ta có Ấp Bắc (tháng giêng-1963); đánh Mỹ ta có Vạn Tường(18/08/1965)... Đây không chỉ là nguyên tắc về tinh thần, quyết tâm, tâm lý mà còn phản ánh sự tin tưởng vào một quyết định sáng suốt.

Thứ hai, quân đội ta luôn biết cách để tập trung một lực lượng quyết định, tại một địa điểm quyết định, ở một thời điểm quyết định để giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Đây không phải là vấn đề mới bởi đã có rồi trong binh pháp của người xưa. Thế nhưng, vận dụng trong hoàn cảnh cụ thể là điều có ý nghĩa quyết định. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân năm 1953-1954 với đỉnh cao là trận Điện Biên Phủ là một dẫn chứng điển hình. Cuộc tiến công chiến lược mùa Xuân 1968 để buộc Johnson phải rời khỏi Nhà Trắng, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược là một chiến công mẫu mực...

Thứ ba, trong hầu hết các chiến thắng, đều chứng minh tính cơ động cao, thần tốc là sức mạnh. Đây là điểm độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới. Tôi xin dẫn ra một trong rất nhiều dẫn chứng. Di chuyển quân và vận chuyển đạn pháo 155 ly (chiến lợi phẩm) từ nam Lào đến Điện Biên Phủ, băng qua hơn 1000 km đường rừng núi hiểm trở, trong thời gian chưa đến 30 ngày là một thành công đứng trên cả sự phi thường.

Thứ tư, những trận đánh có ý nghĩa chiến lược của quân đội ta đều diễn ra trên các vùng rừng núi. Đây có thể là một trong những đặc thù của chiến tranh cách mạng. Từ chiến thắng đầu tiên, đến Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Nguyên 1975 cho đến những trận đánh ở biên giới phía Bắc năm 1979...; tất cả đều chứng minh rất rõ, hình thái chiến tranh chủ yếu của quân đội ta là giữ nước. Chính vì vậy, địa bàn rừng núi đã, và luôn luôn là địa bàn quan trọng nhất.

Thứ năm, Chưa có một cuộc chiến tranh nào mà ta hơn hẳn kẻ thù về vũ khí, trang bị. Chúng ta chiến đấu chủ yếu bằng tinh thần, bằng lòng dũng cảm. Đây là điều bắt buộc của một nước nhỏ, nghèo nàn. Tuy nhiên, chiến đấu trong những hoàn cảnh như thế, tổn thất vô cùng lớn. Đây là một bài học theo tôi nghĩ là cực kỳ cần thiết khi kinh tế đất nước phát triển. Quân đội cần phải được hiện đại hoá theo đúng nghĩa của từ này.

Trên đây là 5 bài học được trình bày hoàn toàn theo chủ quan của người viết. Có không ít những bài học nữa, nhưng đã được nêu trong nhiều cuốn sách nên tôi nghĩ không cần thiết phải đưa ra.

Một trong ba đặc trưng đáng chú ý nhất của thế kỷ 20 và bốn năm đầu tiên của thế kỷ 21 là chiến tranh.  Trong hơn 100 năm qua số người chết vì chiến tranh - dù trực tiếp hay gián tiếp, không dưới 300 triệu người. Đó là một con số khủng khiếp. Tuy nhiên, số liệu đó cũng phần nào giải thích vì sao dân tộc ta phải luôn ở trong tình trạng chiến tranh nhiều đến thế.

Cũng rất đáng để nhấn mạnh rằng, thật ít những chiến công có được tầm vóc của thế kỷ hay của thời đại. Điện Biên Phủ rồi “Điện Biên Phủ” trên không và Thời đại Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử bất tử của loài người. Hôm nay, khắp nơi đều thích nói đến sự biến động của giá vàng, giá dầu... Loài người đang mơ về một giấc mơ của một nền kinh tế toàn cầu. Thế nhưng, chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc; chừng nào vẫn còn những mưu toan quyền lực nhân danh các giá trị tôn giáo, chủng tộc...; thì chừng đó, Việt Nam vẫn là biểu tượng rực rỡ sáng ngời của lòng kiêu hãnh; vẫn mãi là tấm gương mẫu mực về sự hy sinh và lòng dũng cảm. Trong muôn vàn tia sáng làm nên niềm tự hào của hai tiếng Việt Nam; các anh - những người lính, chính là tia sáng đáng trân trọng nhất.

Huế, tháng 12/ 2004
T.V.H
(190/12-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

  • NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

  • MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)

  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)