Trong kháng chiến chống Mỹ, cùng với những thắng lợi trên chiến trường miền Nam, miền Bắc không chỉ làm tốt nhịêm vụ hậu phương lớn của cả nước, mà còn đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của quân đội Mỹ.
Dân quân Từ Liêm, Hà Nội trực chiến trong 12 ngày đêm
Đỉnh cao là đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược chủ yêu bằng máy bay B52 cuối tháng 12/1972, làm nên Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, góp phần cho công cuộc thống nhất đất nước. Chiến thắng đó mãi là biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Đầu năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn quyết định. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, ngày 6/4/1972, Tổng thống Ních-xơn ra lệnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai với quy mô lớn hơn. Âm mưu của cuộc tập kích chiến lược này là nhằm ép buộc Việt Nam phải chấp nhận ký Hiệp định Paris theo các điều khoản sửa đổi của Mỹ, hủy điệt tiềm lực kinh tế - quốc phòng của miền Bắc, hạn chế chi viện cho miền Nam, đe dọa phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới. Mỹ đã huy động số lượng lớn máy bay chiến lược B52, với 193/400 chiếc hiện có lúc đó của quân đội, 1.077/3.043 máy bay không quân chiến thuật, 6/24 tàu sân bay, hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không và nhiều loại máy bay phục vu jkhasc như máy bay gây nhiễu, máy bay trinh sát... cùng 60 tàu chiến các loại của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương.
Cuộc tập kích đường không đó là một cuộc ném bom hủy diệt vô cùng man rợ. Trong 12 ngày đêm, đế quốc Mỹ đã sử dụng 663 lượt máy bay B52 và 3.920 lượt máy bay chiến thuật ném xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc hơn 100.000 tấn bom đạn. Chỉ riêng phố Khâm Thiên, bom Mỹ đã tàn phá chiều dài khu phố dài 1.200m, gần 2000 ngôi nhà, đền chùa, trường học, trạm xá, 287 người chết, 290 người bị thương.
Từ năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo đúng tình hình và chỉ đạo Bộ Tư lệnh Quốc phòng phải nêu cao cảnh giác. Ngày 7/8/1964, hai ngày sau khi Mỹ dựng nên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình nhưng nếu đế quốc Mỹ và tay sai xâm phạm đến miền Bắc nước ta thì toàn dân ta nhất định sẽ đánh bại chúng”. Ngày 18/6/1965, Mỹ lần đầu tiên dùng B52 ném bom Bến Cát. Ngay 9/7/1965, Hồ Chủ tịch nhận định: “Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”. Ngày 12/41966, B52 của Mỹ ném bom Quảng Bình, mở đầu chiến lược đánh phá miền Bắc, Hồ Chủ tịch chỉ thị phải tìm cách đánh được B52. Ngày 17/9/1967, Tiểu đoàn 84, Trung đoàn 238 đã bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, khẳng định khả năng đánh thắng các cuộc tập kích B52 của địch. Cuốn sách “Cách đánh B52 của Bộ đội Tên lửa” được phổ biến. Đầu xuân 1968, Bác Hồ triệu tập Phó Tổng tham mưu trưởng Phùng Thế Tài và Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đến nghe báo cáo và nhận định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.
Gần 5 năm sau, lời tiên đoán của Hồ Chủ tịch trở thành sự thật, Mỹ ồ ạt mang B52 đánh phá Hà Nội. Lúc 10h30’ ngày 17/12/1972, Tổng thống Ních – xơn ra lệnh ném bom đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và nhiều vùng khác ở miền Bắc. Ngày 18/12, những trận đánh đầu tiên của quân dân miền Bắc đã bắn rơi tại chỗ “Siêu pháo đài bay B52” – thần tượng của không lực Hoa Kỳ. Đến ngày 29/12, do tổn thất nặng nề trong 11 ngày liên tiếp, B52 của Mỹ không dám đến Hà Nội nữa. Sau 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng, sáng tạo, quân dân miền Bắc đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không quy mô chưa từng có của Mỹ, làm nên Chiến thắng “Hà Nội – Điên Biên Phủ trên không”. Đây cũng là lần đầu tiên, không quân Mỹ chịu thiệt hại nặng nề nhất: Có 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có 34 B52, bắt sống nhiều phi công Mỹ. 7h sáng 30/12, Tổng thống Nich-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và chấp nhận họp lại Hội nghị Paris về Việt Nam. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết.
Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” là biểu tượng trí tuệ, nghệ thuật quân sự của Việt Nam. Trong đó, yếu tố rất quan trọng là tìm được cách đánh B52 được cả thế giới quan tâm, vì B52 là thần tượng không lực Mỹ, là loại máy bay ném bom phản lực hạng nặng dùng để ném bom hạt nhân trong chiến tranh toàn cầu. Cho đến nay trên thế giới vẫn chưa có lực lượng nào bắn rơi B52 trừ Việt Nam. Để đánh được B52, phải chủ động trước về cách đánh. Từ tháng 5/1966, ta vừa đánh và nghiên cứu cách đánh B52. Trước hết phải biết vạch nhiễu để phát hiện B52, bố trí rada sao cho phát hiện khi chúng chưa kịp vào miền Bắc. Bộ đội tên lửa đã khắc phục được những hạn chế về tính năng binh khí kỹ thuật, phân biệt mục tiêu, nhận diện được B52 để tiêu diệt. Quân ta đã nghiên cứu phát hiện được điểm mạnh, điểm yếu của không quân Mỹ, đảm bảo vũ khí nào của ta cũng phát huy tác dụng lực lượng nào cũng có thể hạn máy bay địch, kể cả dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, khống chế được máy bay hộ tống, tạo điều kiện cho Bộ đội tên lửa và Không quân bắn hạ B52...
Chiến thắng lừng lẫy này là sự kế thừa và phát huy nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp. Tròn 40 năm qua, chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đã trở thành huyền thoại, thành biểu trưng cho sức mạnh tinh thần và đoàn kết dân tộc của Việt Nam...
PHAN VIỆT
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!