NGÔ ĐỨC HÀNH
Huế là vùng “đất thơ”. Không chỉ các nhà thơ gốc Huế mà các nhà thơ, nhà văn có dịp ghé Huế đều muốn chọn Huế làm “nhân vật trữ tình”.
Ảnh: tư liệu
Đến Huế, chắc chắn sẽ “tức cảnh sinh tình”, chưa có bài thơ về Huế, dễ nhận ra “mắc nợ”, “vô tình” với Huế. Chưa nói đến sáng tác, thơ về Huế luôn mang đến cho người yêu thơ cảm xúc đặc biệt.
Trong số các nhà thơ đương đại viết về Huế, phải kể đến nhà thơ Trương Nam Hương. Nàng thơ - phu nhân nhà thơ, có lần nói: “Anh Hương yêu Huế hơn yêu em”. Cũng đúng thôi, dẫu lời nói có gia vị của dỗi hờn.
Ngoài tình cảm chung với Huế, Trương Nam Hương có tình cảm riêng, với tư cách một nhà thơ có cố thổ là Huế. Thân phụ nhà thơ Trương Nam Hương là người Huế, ông tập kết ra Bắc, rồi lấy vợ quê Bắc Ninh. Tuổi thơ Trương Nam Hương gắn bó với Hà Nội, sau thời gian ngắn ở Huế, Biên Hòa, gia đình ông định cư tại Thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay. Trương Nam Hương từng học trường Cấp 2 (nay là Trung học cơ sở) mang tên Đại thi hào Nguyễn Du, của Huế.
Trương Nam Hương từng “tự bạch” trong thơ mình: “Trong tôi có chút sâu đằm/ Của Kinh Bắc với thâm trầm Cố đô/ Sông Hồng hắt đỏ lên thơ/ Tôi buông lục bát xanh bờ Hương giang” (Gửi hai dòng sông quê).
Có thể nói trong trái tim thơ Trương Nam Hương có nhiều dòng sông như sông Cầu (Bắc Ninh), sông Hồng (hay sông Cái, sông Mẹ), sông Hương... Mỗi dòng sông có một vị trí riêng, nhưng sông Hương luôn vỗ vào tâm thức Trương Nam Hương. Hay nói cách khác, nhớ đến sông Hương, cả khoảng trời ký ức bật dậy trong tâm hồn nhà thơ. Sông Hương với anh không chỉ là cố thổ, là văn hóa, là Nhã nhạc, thành quách... mà còn là tâm linh.
...
Anh vịn màu rêu Huế để yêu em
Trước thành quách bao đời em cứ trẻ
Sông Hương chảy thon mình qua dâu bể
Anh mượn vành nón Huế... buổi về thăm
Anh vịn lên mưa nắng những thăngtrầm
Những cơn bão của vần xoay thế cuộc
Vững như núi, Huế lại đằm như nước
Vạt áo dài mây trắng xuống thi ca.
(Màu Huế)
Nhà thơ Mai Văn Hoan - người bạn vong niên của cố nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo kể rằng: “Hai câu thơ xuất thần của Nguyễn Trọng Tạo về Huế Sông Hương hóa rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say ông nghĩ ra lúc say rượu. Hôm sau người bạn nhậu đọc lại cho nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chép lại”. Đây là bài thơ ngắn nhất về Huế, chỉ có hai câu và là một trong những bài thơ găm vào lòng bạn đọc, trở thành “từ khóa” cảm xúc. Trương Nam Hương cũng có đôi lần say với Huế “Liêu xiêu trăng ngã trên đầu/ Có hai kẻ dại qua cầu thi nhân/ Sóng buồn vỗ mãi bàn chân/ Sông Hương cũng chảy theo vần, Huế ơi” (Ngẫu hứng đêm Huế).
Nhà thơ Trương Nam Hương vừa bước qua “lục thập hoa giáp”. Ở tuổi không còn trẻ nhưng thơ như người, luôn thánh thiện, trong veo. Văn học là nhân học, rất đúng với Trương Nam Hương, nếu ai từng đọc thơ anh.
Thường ở tuổi không còn trẻ con người ai cũng trân trọng ký ức, nâng niu hoài niệm. Có thể nói Trương Nam Hương đã phác họa thành công “thiên tính” ký ức trong thơ.
...
Anh về nhặt tuổi mình xưa
Bốn mươi năm đủ gói vừa nhớ quên
Đền đài rêu phủ xanh tên
Em hây hẩy muốt mùa sen nguyệt cầm
Ngự Bình thông biếc từ tâm
Sông Hương thầm nhắc ta cầm tay nhau
Thời gian lệch gió trên đầu
Sớm hay sợi tóc chuyển màu sang trưa
(Nhặt tuổi mình)
Sông Hương, núi Ngự, Vỹ Dạ, chùa Thiên Mụ, tiếng chuông Từ Đàm, thành quách, rêu phong, nắng, mưa, áo dài, tím Huế, tiếng "dạ" của người Huế... Trương Nam Hương ví von Huế dịu dàng như bàn tay thiếu nữ: “Chụm năm ngón hóa Kinh thành/ Thẳng lên hóa núi Ngự Bình thông reo/ Chỉ tay mấy nhánh vòng vèo/ Hóa Hương giang nước trong veo bốn mùa/ Khum vào hóa nón bài thơ/ Mở ra buồm đón gió lùa Thuận An/ Uốn mềm tay hóa đò ngang/ Chỉa riêng ngón cái đa mang - mái dằm/ Nắm niu cả nỗi khôn cầm/ Ghét thương nắng dại mưa lầm mới buông/ Giọt chiều Thiên Mụ ngân chuông/ Hứng long lanh Huế vui buồn trên tay!” (Huế trên tay).
Huế là đất Kinh đô cũ, đất của Phật giáo... Với sự quan sát tinh tế của mình, hình tượng trong thơ Trương Nam Hương trở nên ám dụ. Hay nói cách khác, Trương Nam Hương là nhà thơ Á Đông, trong thơ anh có vẻ đẹp của hư vô trong giáo lý nhà Phật. “Cau vườn Vỹ Dạ sau mưa/ Nhớ Hàn Mặc Tử nắng vừa qua đây/ Tương tư lá trúc nghiêng gầy/ Gió xoa ngang mặt tháng ngày trái xoan”; “Lặng vào tiếng dạ hiền ngoan/ Muốn hôn nắng Huế gặp toàn Huế mưa” (Nhặt tuổi thơ mình).
...
Em nằm xanh nhé, sông Hương
Ta nghiêng núi Ngự ngồi thương... dịu dàng
Khỏa vào trong vắt mênh mang
Có soi kịp nếp cũ càng tháng năm
Khói sương dâu bể toan cầm
Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay
Chẳng hòa tan được rủi may
Huế cho không cả ly đầy... bóng vua
(Riêng với sông Hương)
*
Tài thơ Trương Nam Hương bộc lộ từ sớm. Khi mới ngoài 20 tuổi. Trong một lần về thăm Huế, anh nhận ra tính cách của quê mình: “Huế thường kín đáo vậy thôi/ Cả khi Huế biết là tôi trở về/ Huế không vồn vã mô tề/ Có thương đứt ruột chớ hề tỏ ra/ Huế mình giàu có thi ca/ Không sao dắt mệ bước qua phận nghèo/ Sông Hương cũng dốc cũng đèo/ Câu hò mái đẩy gieo neo nổi chìm” (Huế buổi về thăm 1985).
Trương Nam Hương xuất bản Khúc hát người xa xứ (Nxb. Trẻ, 1990) và cho đến nay ông đã có 12 tác phẩm. Về thành tựu, Trương Nam Hương đã có 10 giải thưởng; giải nào cũng danh giá, nhưng phải kể đến Giải thưởng Văn nghệ Quân đội (1989 - 1990) và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1991), nhiều giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và các giải thưởng khác.
Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, từng là Ủy viên Ban Chấp hành - Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh (từ 2000 đến 2020 ). Đối với Hội Nhà văn Việt Nam, Trương Nam Hương từng là Ủy viên Hội đồng Thơ (khóa 8, khóa 9).
Có thể nói, nếu thi ca là một “tôn giáo” của vẻ đẹp thì Trương Nam Hương từ lâu đã được chọn là một tông đồ. Ngoài thơ và dịch thơ, ông không “sân si” một lĩnh vực nào khác. Dẫu “thế giới xô lệch”, đa biến; văn chương cũng đang “đa cảm”, “bươn bả” với nhiều xu hướng, phong cách nhưng Trương Nam Hương luôn vậy, bình thản, thánh thiện. Ông tiếp tục sáng tạo thi ca những gì thuộc về nhân bản, phụng sự “sứ mệnh” tôn vinh cái đẹp. Dẫu viết về thân phận, suy tư về nước mắt thì anh cũng tìm ra vẻ đẹp của nước mắt, mở ra bầu trời hy vọng.
Ngay từ khi bước vào thi ca, Trương Nam Hương đã ý thức tôn vinh tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ tiếng Việt. Nói đến điều này, hẳn ai cũng nhớ đến bài thơ Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ. Trương Nam Hương nhận ra ở tiếng Việt có “Bốn ngàn năm bổng trầm”, “Thảo thơm như lúa đồng”, mỗi người Việt đều “Lớn lên từ cánh nôi”. Và “Thanh âm hình chữ S/ Từ ngàn xưa ông, bà/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Nuôi nhau bằng dân ca” (Tiếng Việt ơi, Tiếng Việt).
Trương Nam Hương luôn vậy, là nhà thơ chọn gốc tâm cảm là sự chân thành, trách nhiệm. Hỏi chuyện cảm xúc khi làm thơ về Huế, tâm hồn anh lắng xuống ngọt ngào: “Sông Hương không tuổi thơ không tuổi/ Lắng mãi phù sa, ngọt mái chèo” (Tôn Nữ... sông Hương). Anh đã và vẫn viết về Huế, với hy vọng trả nghĩa, “Mai con về tạ lỗi với phù sa”.
N.Đ.H
(TCSH51SDB/12-2023)
HỒ THẾ HÀ
Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất sắc trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuộc sống và trang thơ của ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giải mã ở tất cả các cấp độ thi pháp với giá trị độc sáng riêng của chúng. Người đến sau khó có những phát hiện gì thêm từ thế giới chỉnh thể nghệ thuật ấy.
NGUYỄN THÀNH NHÂN
Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.”
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
Nhân 17 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Bổng (11/7/2001 - 11/7/2018)
Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào, với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị… (Nhà thơ Hữu Thỉnh).
PHẠM PHÚ PHONG
Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân.
NGUYỄN DƯ
Đang loay hoay thu dọn lại tủ sách bỗng thấy cuốn Dã sử bổ di. Tự dưng muốn đọc lại. Nhẩn nha đọc… từ đầu đến cuối!
NGUYỄN VĂN SƯỚNG
Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.
TRUNG TRUNG ĐỈNH
Khóa học đầu tiên của trường viết văn Nguyễn Du do ý tưởng của ai tôi không rõ lắm. Nhưng quả thật, sau 1975, lứa chúng tôi sàn sàn tuổi “băm”, cả dân sự lẫn lính trận đều vừa từ trong rừng ra, đa số học hết cấp III, có người chưa, có người đang học đại học gì đó.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.
LIỄU TRẦN
Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Có thể gọi đây là cuốn hồi ký đặc biệt vì nhiều lẽ. Trước hết, vì tác giả hình như chưa viết báo, viết văn bao giờ. Bà là PGS.TS chuyên ngành Dược, nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại có “thế mạnh” hơn nhiều cây bút khác - Cao Bảo Vân là con gái của tướng Cao Văn Khánh (1916 - 1980).
HOÀNG THỤY ANH
Đỗ Thượng Thế là giáo viên dạy mỹ thuật. Ấy thế mà, nhắc đến anh, người ta luôn nghĩ đến nhà thơ trẻ. Cũng đúng thôi, nhìn vào hoạt động thơ ca và các giải thưởng của anh mới thấy cuộc chơi chữ đã lấn át hoàn toàn sân họa.
DO YÊN
Trong không khí kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn - cựu chiến binh Nguyễn Quang Hà đã trình làng tiểu thuyết Nhật ký Đông Sơn, góp phần làm phong phú các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân.
TRẦN HOÀNG
(Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)
LÊ KHAI
"Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.
NGUYÊN HƯƠNG
1. Có nhiều cách để người ta nói về Tết. Đó là một dịp để con người nghỉ ngơi, gặp gỡ, hàn huyên, và dù có được chờ đợi hay không thì Tết vẫn tới.
NGUYỄN VĂN CƯƠNG
Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.
NGUYỄN PHÚC VĨNH BA
Mùa Xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay đó là những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người.
ĐỖ HẢI NINH
Trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), trên cơ sở nghiên cứu về trí thức người Việt từ phương diện xã hội học lịch sử, GS. Trịnh Văn Thảo xếp Nguyễn Vỹ vào thế hệ thứ 3 (thế hệ 1925) trong số 222 nhân vật thuộc ba thế hệ trí thức Việt Nam (1862, 1907 và 1925)(1).
ĐỖ LAI THÚY
Tôi có trên tay cuốn Tôi về tôi đứng ngẩn ngơ (tập thơ - tranh, Sách đẹp Quán văn, 2014) và Đi vào cõi tạo hình (tập biên khảo, Văn Mới, California, 2015) của Đinh Cường.
PHẠM TẤN XUÂN CAO