VŨ NGỌC GIAO
Có một lần tôi đã chia sẻ với nhà văn Vĩnh Quyền rằng, tôi rất thích Rừng Na uy.
Và Trong vô tận của ông cũng vậy, cả hai tiểu thuyết cùng giống nhau ở một điểm: Gấp sách, cảm xúc còn lại tôi thấy cô đơn, dù H. Murakami hay Vĩnh Quyền đều không hướng tới sự bi lụy trong tình yêu. Nhưng không hiểu sao, tình yêu “trong vô tận” với tôi vẫn là những nỗi cô đơn…”.
Tôi từng đọc “Trong vô tận” trên ebook, còn nhớ đó là một đêm tháng 6 năm 2019. Tôi đọc một mạch không dừng lại.
Đọc “Trong vô tận”, nhiều nhà phê bình đã có cái nhìn sắc bén. Tôi đọc “Trong vô tận” với cảm xúc của một người đàn bà trước những câu chuyện tình buồn và đẹp đến nao lòng. Tháng 7 năm 2019 nhà văn Vĩnh Quyền tặng tôi cuốn tiểu thuyết này. Và tôi đọc nó lại một lần nữa vì với tôi, đọc tiểu thuyết trên sách giấy vẫn thú vị hơn trên ebook. Những câu chuyện tình của các nhân vật “trong vô tận” lôi cuốn tôi đến trang cuối, gấp sách lại cảm xúc của tôi như vừa qua một cơn mộng mà ở đó nỗi cô đơn ngự trị. Các nhân vật “trong vô tận” qua nhiều thế hệ, đan xen giữa hồi ức và hiện tại, những gia phong, lễ giáo ở chốn Cố đô u trầm, cổ kính nhưng không kém phần lãng mạn. Lồng vào những câu chuyện lịch sử là những chuyện tình xuyên suốt đẹp và dở dang.
Những nhân vật trong tiểu thuyết ở độ tuổi thanh xuân, thuộc nhiều thế hệ một dòng họ vương triều ở Huế. Trong hồi ức của thế hệ đã qua và thế hệ hiện tại, những chuyện tình đã biến động theo hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, mỗi nhân vật một số phận, đưa người đọc lạc vào vô tận “trong bước đi âm thầm không cưỡng của bóng tối”.
Ở đó ta bắt gặp một tình yêu đầy bao dung, âm thầm và tự giam hãm của Nhàn, một cô gái lớn lên trong cô nhi viện dòng nữ tu, ẩn mình khổ hạnh, một cô gái “gần như lặng lẽ suốt bên khung thêu”. Và trong đêm “tay tôi tìm tay mẹ, đặt lên ngực mình, mân mê và níu giữ như sợ thất lạc. Chợt dừng lại, tôi thoáng nhận không phải tay mẹ” và “tôi dần hiểu chuyện gì xảy ra. Chỉ mình Nhàn bận tâm đến tâm trạng tôi, biết tôi đang ở đâu và không nỡ để tôi một mình trong bóng tối đêm đầu tiên cách biệt âm dương với mẹ”.
Ta thấy Hoàng, một chàng trai đầy kiêu bạc, nhưng sau vẻ kiêu bạc đó là những góc khuất, một tình yêu đồng tính khổ đau, mà ở xã hội đương thời lúc bấy giờ còn đặt vào đó cái nhìn đầy khắc nghiệt và kỳ thị. Hoàng đã âm thầm chống chọi bản thân để “bảo vệ tôi trước đam mê của chính anh”, để cuối cùng Hoàng tự giải thoát cuộc đời mình khỏi “thế giới anh cho rằng không dành cho mình” bằng một phát súng. “Nơi bia mộ, từ ảnh chân dung, đôi mắt Hoàng trở nên sống động sau làn khói lam mỏng manh vương thinh không”.
Ta thấy một Hạnh nhu mì và đáng yêu trong thân phận tôi tớ “chừ em biết nhiều về dòng dõi nhà anh trong khi không biết chi về nhà em”. Nhưng tình yêu, muôn đời vẫn là con ngựa bất kham và có lý lẽ riêng của nó. Hạnh chờ đợi và hy vọng dù mong manh rằng người cô yêu sẽ trở về với chiếc boomerang - “một thứ luôn trở về sau khi bay đi”. Và Hạnh mãi vẫn thuộc về thân phận vốn đã định sẵn từ khi cô chưa ra đời. Hạnh lấy chồng, đó là số phận và tất nhiên, không cùng người cô chờ đợi. Một đám cưới mà tất cả đều “an toàn”, nề nếp gia phong được gìn giữ. Có khắc nghiệt không? Khi tình yêu đôi lứa ở xã hội giai đoạn đó vẫn đem thân phận ra làm rào cản khiến họ chẳng thể thoát ra? Câu trả lời dành cho người đọc khi hình ảnh người vú già mẹ Hạnh đổ hắt ly sữa đi vì bà “không muốn con gái lặp lại vòng đời của mình”.
Bên cạnh những trang sử đầy bi hùng “Trong vô tận” là tình yêu của tuổi trẻ cuồng nhiệt và đớn đau, âm thầm và dang dở. Tất cả đều bị giam hãm, kiềm nén vì hoàn cảnh, thân phận và cả vì lòng tự trọng, bao dung. Ở đó nỗi đau nào lần hồi cũng được hóa giải, nhưng hóa giải rồi vẫn u uẩn, vẫn đau, để đến cuối đời người trong cuộc vẫn nặng lòng, nhìn đã khác nhưng không thể khác. Ở đó tình yêu tưởng như đã san bằng mọi rào cản để được yêu trong vô tận không gian, trong vô tận thời gian.
Một ngày “Ayumi xứ Phù Tang xuất hiện với hoa cẩm chướng đỏ trên tay” chàng trai vẫn nhớ “lời dặn thiết tha hãy bay trở về như một boomerang” nhưng rồi chàng lại “muốn vượt qua ý định giữ khoảng cách cần thiết” với Ayumi bởi nét tươi trẻ của cô. Nhưng sự tự trọng đã giam hãm họ khi Ayumi biết chàng trai đã có một cô gái ở quê nhà. Sau lần nhập cuộc duy nhất với Ayumi bên cạnh những chiếc sọ người, một sự trừng phạt vô hình và nghiệt ngã đã “dành cho những kẻ mạo phạm?” Còn sự trừng phạt dành cho người ở lại? Đêm đêm chàng trai “quấn chăn ngồi thu lu một góc khóc tới sáng” vì “run sợ, biết trước lại thêm một đêm vật vờ, lại thấy bàn tay Ayumi chới với trước mặt” và cuối cùng “rơi hút vào miệng vực trắng mù bụi nước”.
Một Diệu Lành dễ thương như cái tên, dịu dàng mà quyết đoán, trong “không gian ngả nghiêng” đã khiến một chàng trai “vượt qua ám ảnh mình đã là kẻ nguội lạnh, dửng dưng với tình yêu” vào một “đêm tranh chấp giữa đóng và mở”. Một tình yêu dắt díu nhau, hoang dại, phóng túng và si mê.
Và Linh, cuộc tình cùng “chàng thanh niên trong vương phủ” nhưng không được gia đình người yêu chào đón vì họ không muốn “đứa con trai duy nhất lấy vợ bên đạo”. Chàng “nhảy núi” theo cách mạng mặc cho sự cản trở từ cha. Người cha vì nhớ con đêm đêm “ngồi chơi cờ một mình dưới mái hiên”. Cho đến “một đêm, ông ngẫu hứng đi một quân cờ trắng trước khi vào nghỉ. Sáng hôm sau ra vườn tưới hoa, ông chợt nhận ra quân đỏ đã “động binh” đối ứng. Ván cờ cứ thế tiếp diễn. Mỗi đêm một nước cờ. Có khi hai, ba đêm liên tục. Có khi bẵng mấy đêm mới nối lại”. Những “ván cờ ma” đã đưa người cha từ hy vọng đến tuyệt vọng vì nó cứ “dở dang mãi” cho đến một ngày ông linh cảm con trai không còn trở về được nữa. Một tình tiết hay và xúc động đến nao lòng mà chỉ Vĩnh Quyền, bằng văn phong của ông mới có thể đưa người đọc miên man giữa mộng ảo, thực hư. Người mẹ âm thầm chứng kiến thế sự thăng trầm của gia đình nhưng vẫn không ngừng hy vọng, bà “lặng lẽ dùng keo đính các quân cờ trắng - đỏ đúng vị trí dở chừng trên bàn cờ, và vẫn đặt ở đó, trên trường kỷ dưới mái hiên, như thể cuộc đợi chờ của người mẹ không có điểm kết thúc”. Một chi tiết có thể nói rất hay và “rất Huế” mà chỉ phụ nữ Huế mới đủ kín kẽ, thâm trầm để có thể tạo nên. Một câu chuyện buồn đau mà lại đầy sống động dưới ngòi bút kỹ lưỡng cả về ý tứ lẫn văn phong của Vĩnh Quyền. Một ngày, hài cốt chàng trai tình cờ được tìm thấy dưới chân núi Kim Phụng. Sau nhiều năm xa xứ Linh lại tìm về, cô tha thiết xin được “rải tro cốt của anh xuống quãng sông trước chùa Linh Mụ” theo nguyện vọng của người yêu năm xưa “muốn hóa thân vào đáy sông thơm”. Tro từ lọ sứ trắng bay theo gió chìm vào dòng Hương giang để “mỗi lần nhìn sông Hương” “tôi không còn nghĩ đó chỉ là một dòng sông”.
Một Huế đẹp và thơ, u trầm và đầy biến động đã tái hiện “Trong vô tận”. Từ những câu chuyện tình, những câu chuyện đời ở một vương phủ, Vĩnh Quyền dẫn dắt người đọc đến những câu chuyện lịch sử quen mà lạ. Quen vì tên tuổi những nhà chí sĩ yêu nước mà mỗi người con dân Việt hầu như đều biết đến: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Nguyễn Quang Siêu, Tôn Thất Đề. Lạ vì ít ai biết một Thái Phiên yêu nước, khẳng khái cho đến chết lại hào hoa đến thế? Lúc ông chết đi ba người đàn bà của ông là Thục Đoan, Tân Dương và Ngọc Băng nước mắt tuôn dài. Họ đều là những người đàn bà đẹp, bên mộ ông họ đã gặp nhau, tựa vào nhau, cùng thấu hiểu và tôn trọng nhau. Khi “chuông chiều từng tiếng rơi trong thinh không vô tận” họ thấy ở nhau nỗi yêu và nỗi đau là một, chỉ khác thân phận mỗi người và “ánh sao nhấp nháy cuối trời xa trông như giọt lệ long lanh dành cho nỗi đau nơi trần thế.”
Viết về lịch sử nhưng ngòi bút của Vĩnh Quyền vẫn đậm chất phiêu lãng khiến người đọc không thể dừng lại vì hấp dẫn và kịch tính. Cùng một lúc ông có thể chuyển tải một cách uyển chuyển trang sử vào trang văn, đó chính là sự tài tình trong văn phong của Vĩnh Quyền ở tiểu thuyết này.
“Trong vô tận, song song gặp nhau?” Hình ảnh Nhàn, mối tình đầu cũng là cô gái xuất hiện “Trong vô tận” từ đầu, xuyên suốt đến kết thúc. Nhàn “thật hiền cùng nụ cười mỉm quen thuộc dù với vành khăn lúp và tà áo thụng nữ tu”. Vĩnh Quyền kết truyện, lại một lần nữa ông đưa người đọc cùng phiêu lãng “trong ánh trăng đẫm vàng”, giữa mộng - thực “từ đồi cát này sang đồi cát nọ”, một cuộc đuổi bắt giữa mộng và thực, giữa hạnh phúc và đớn đau “cho đến khi thấy chỉ còn lại tôi”, cho đến khi “gió hoang mạc đã đưa Nhàn về trời như một thiên sứ”. Một kết truyện đậm chất phiêu lãng và huyền ảo mà Vĩnh Quyền đã khẳng định được tên tuổi trên văn đàn, một cây bút thông minh và uyển chuyển. Viết những câu chuyện lịch sử đan xen những câu chuyện tình đẹp và buồn “Trong vô tận” ông không có ý định khơi lại những nỗi đau, mà ông tái hiện lại một vương triều và bối cảnh xã hội lúc bấy giờ ở cố đô Huế.
Từ “Mảnh vỡ của mảnh vỡ” đến “Trong vô tận” Vĩnh Quyền đã khẳng định vị trí của ông trên văn đàn Việt Nam, một vị trí đáng mơ ước của những người cầm bút. Ông đã đi vào lòng người đọc với tâm thế - một cây bút tài tình, có thể lồng những câu chuyện tình lãng mạn vào những trang sử Việt.
V.N.G
(TCSH382/12-2020)
Bỗng dưng trời chuyển mát, như thế một mùa thu hiếm hoi nào bất ngờ đột nhập vào giữa những ngày hè chói chang của Huế. Chiếc xe đạp già nua, bướng bỉnh của tôi xem ra có vẻ nhạy cảm với thời tiết nên đã chịu khó tăng tốc, giúp tôi kịp đến tòa soạn Tạp chí Sông Hương đúng giờ hẹn. Cuộc tọa đàm thân mật với tác giả trẻ Nguyễn Quang Lập.
THIẾU SƠN
* Vĩnh Quyền sinh năm 1951 tại Huế, tốt nghiệp Đại học Sư phạm và cử nhân Văn khoa Huế 1974.
MAI VĂN HOAN
Không hiểu sao nghĩ về Hoàng Vũ Thuật tôi lại nhớ đến Những bông hoa trên cát; mặc dù anh đã có thêm Thơ viết từ mùa hạ và Gửi những ngọn sóng.
LTS: Tháng 9 vừa qua, tại Huế, người cháu ruột gọi Bà Hoàng Thị Kim Cúc bằng Cô là Hoàng Thị Quỳnh Hoa đã xuất bản và giới thiệu cuốn “LÁ TRÚC CHE NGANG - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ TÔI”. Cuốn sách đã trưng dẫn ra nhiều tư liệu trung thực về sự thật chuyện tình giữa Hàn Mặc tử và Hoàng Thị Kim Cúc mà lâu nay trên văn đàn có nhiều thêu dệt khác nhau.
Họ tên: Dương Thị Khánh
Năm sinh: 1944
Quê quán: Thừa Thiên Huế
Hiện ở: 71 đường 3 tháng 2, thành phố Đà Lạt
HỒ LIỄU
Trần Thị NgH [bút danh khác là Thọ Diên] tên thật là Trần Thị Nguyệt Hồng, sinh 18/4/1949 tại An Xuyên, Cà Mau. Năm mười tuổi bắt đầu đọc thơ. Bắt đầu viết văn từ năm 1968.
LTS: Nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998), sáng 14/9 tại Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học, thu hút 25 tham luận của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và khoảng 400 người đến dự.
CHINGHIZ AIMATỐP
Dưới đây cuộc trao đổi ý kiến giữa Irina Risina, phóng viên báo Litêraturnaia Gazeta với nhà văn Ch. Aimatốp ít lâu sau Đại hội lần thứ 8 của các nhà văn Liên Xô.
BÙI VIỆT THẮNG
(Đọc Thuyền trăng - Tập thơ của Hồ Thế Hà, Nxb. Văn học, 2013)
TRẦN THÙY MAI
Tôi biết chị Võ Ngọc Lan từ khi còn làm việc ở Nxb. Thuận Hóa, lúc đó tôi được giao biên tập cuốn Niệm khúc cho mưa Huế của chị.
YẾN THANH
“Năm nào đó, hình như tôi đã trồng ở đây một cây ưu tình, cây đã ra hoa lẫn vào màu xanh ngõ vắng, và đã dẫn tôi đến một miền trắng xóa như một giấc mơ đổ vỡ bên trời.”
(Ngõ Huế - Hạ Nguyên)
TRUNG SƠN
100 NĂM NGÀY SINH BÁC SĨ NGUYỄN KHẮC VIỆN (1913 - 2013)
Các tạp chí văn nghệ ở các địa phương trong những năm qua đã đóng góp rất nhiều vào dòng chảy văn học Việt Nam. Đó là nơi góp sức hình thành tên tuổi của nhiều tác giả, tác phẩm từ các địa phương trước khi soi vào gương mặt chung của nền văn học nước nhà, là nơi giữ gìn bản sắc văn hóa văn nghệ của mỗi vùng đất, là nơi khởi thủy của những khuynh hướng sáng tạo mới...
NINH GIANG THU CÚC
Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.
NINH GIANG THU CÚC
Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.
THÁI KIM LAN
Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.
LÊ MINH PHONG
Đừng đặt tên cho họ…
Có thể họ còn vô vàn những cuộc phiêu lưu khác nữa.
(Robbe - Grillet)
PHAN TRẦN THANH TÚ
“Chính anh là người đã nhẫn tâm với bản thân mình khi tôn thờ chỉ có một điều duy nhất” (Đoản khúc số 97)
KỶ NIỆM 123 NĂM NGÀY SINH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRẦN HIẾU ĐỨC
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.