“Sông côn mùa lũ” - một bộ tiểu thuyết công phu

08:55 25/03/2010
NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.

Được biết tác giả hoàn thành bản thảo tại Sài Gòn năm 1981, nhưng ông hiện đang sống ở Mỹ. Riêng với bạn đọc ở Huế, cuốn sách được quan tâm hơn vì “Sông Côn mùa lũ” đã dành nhiều trang tái hiện cuộc sống và bối cảnh lịch sử ở Huế những năm cuối thế kỷ 18 mà trọng tâm là những lần Nguyễn Huệ kéo quân ra Phú Xuân rồi lên ngôi hoàng đế tại núi Bân...; hơn nữa, tác giả tuy là người cùng quê với Nguyễn Huệ, nhưng lại có duyên nợ với Huế - ông là rể của một gia đình dòng họ Nguyễn Khoa nổi tiếng.

“Sông Côn mùa lũ” gồm 101 chương, chia làm 7 phần lớn (1- Về An Thái; 2- Tây Sơn thượng; 3- Hồi hương; 4- Phương Nam; 5- Vượt đèo Hải Vân; 6-Phú Xuân; 7- Kết từ), mở đầu năm 1765 khi hai anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ theo học giáo Hiến - một nhà nho vừa trốn nạn Trương Phúc Loan chuyên quyền, từ Phú Xuân lánh vào quê vợ (An Thái, Quy Nhơn) và kết thúc năm 1792 khi Nguyễn Huệ mất, An (con giáo Hiến, người yêu của Nguyễn Huệ) ra Phú Xuân dự đám tang vua Quang Trung. Có thể nói, tác giả “Sông Côn mùa lũ” đã mượn câu chuyện thăng trầm, tan hợp đầy sóng gió của gia đình ông giáo Hiến và gia đình ba anh em Tây Sơn để tái hiện lịch sử dân tộc ta trong suốt gần ba thập kỷ cuối thế kỷ 18, chứ không chỉ miêu tả cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và những chiến công của Nguyễn Huệ.

Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên và nhà thơ Đỗ Minh Tuấn - những người góp nhiều công sức để “Sông Côn mùa lũ” đến tay bạn đọc Việt Nam, trong lời giới thiệu bộ tiểu thuyết này đều đánh giá cuốn sách là “hay và hấp dẫn”, “đáng mặt là tiểu thuyết theo cái nghĩa cổ điển của từ này”. Đỗ Minh Tuấn viết: “Nguyễn Mộng Giác đã tỏ ra là một ngòi bút tiểu thuyết lịch sử xuất sắc khi phân tích và tái hiện huyền thoại lịch sử bằng cái nhìn văn hóa và cái nhìn thế sự. Những chuyện tình của Nguyễn Huệ, những bê bối của vương triều, những cưu mang nghĩa hiệp và bối rối cũng như những sóng gió gia đình, những tâm sự buồng the không làm mất đi ánh hào quang của người anh hùng, mà trái lại, làm cho Nguyễn Huệ trở nên lớn lao hơn, gần gũi ta hơn như một con người cụ thể đầy những lo toan trần thế và đầy thủy chung ân nghĩa.” Những dòng này được in ở bìa 4 của cả bộ sách, dễ tạo nên ý nghĩ đây chỉ là cách giúp “quảng cáo” cho việc phát hành cuốn sách. Thực ra, những “phẩm chất” mà người giới thiệu đề cập đến đều hiện diện trong “Sông Côn mùa lũ”, duy mức độ thì không hẳn đã là “xuất sắc” và toàn bích.

Ảnh: kythuatdanang.jimdo.com


Điều đáng trân trọng nhất qua “Sông Côn mùa lũ” là sự nghiêm túc, công phu và tâm huyết của tác giả. Trong điều kiện sáng tạo không hẳn là thuận lợi (xin lưu ý là tác giả đã viết tại Sài Gòn từ 1977-1981, trước lúc phải di cư sang Mỹ), chỉ riêng việc hoàn thành được 2000 trang viết với cả trăm chương hồi lớp lang mạch lạc, cả trăm nhân vật vào ra tương đối hợp lý và không nhầm lẫn, trong đó có rất nhiều nhân vật lịch sử từng được nhiều sử sách nói đến như anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Văn Kỷ, La Sơn phu tử, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở, Bùi Đắc Tuyên... đã được dựng lại trên cơ sở đánh giá một cách công bằng và khoa học, đủ thấy công sức lớn lao mà ông đã bỏ ra. Danh mục trên bốn mươi đầu sách tham khảo cũng cho thấy tác giả đã rất công phu sưu tầm tài liệu. Nhiều văn bản quan trọng liên quan đến giai đoạn lịch sử này như Hoàng Lê nhất thống chí, La Sơn phu tử (của Hoàng Xuân Hãn), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm... cho đến những cuốn sách nghiên cứu về Nguyễn Huệ gần đây, được ông trích dẫn hoặc mượn để xây dựng cốt chuyện đã bảo đảm cho tính chân thật lịch sử của tác phẩm. Cả những chi tiết nhỏ như mức thu thuế người dân, cách bắt lính thời đó... tác giả đều căn cứ vào tư liệu lịch sử.

Tuy nhiên, thái độ nghiêm túc tôn trọng lịch sử chưa đủ tạo nên một tác phẩm văn học xuất sắc. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên, khi chứng minh “phẩm chất văn học” của “Sông Côn mùa lũ”, đã chỉ ra một cách đúng đắn những sáng tạo của tác giả: đó là sự phong phú, vẻ đẹp “Những tình cảm, những thôi thúc nội tâm, những suy tưởng, những quan hệ giữa con người và con người” của Nguyễn Huệ và các nhân vật lịch sử khác, lần đầu bạn đọc được biết; đó là tuyến nhân vật hư tưởng như cô An, người yêu Nguyễn Huệ, anh cô An và cả gia đình ông giáo Hiến...

Như vậy, theo nhà nghiên cứu, “Sông Côn mùa lũ” đã có cả hai phẩm chất của một tiểu thuyết lịch sử thành công. Nhưng theo tôi, sự thành công của cả hai mặt đó cũng chỉ ở mức độ hạn chế.

Có thể là tôi đã hy vọng quá nhiều khi nâng bộ sách đồ sộ, in đẹp và đọc những lời giới thiệu. Dù biết tác giả không chỉ viết về phong trào Tây Sơn-Nguyễn Huệ, nhưng một tiểu thuyết lịch sử viết về mấy thập kỷ cuối thế kỷ 18, tác giả lại chọn nhân vật trung tâm là Nguyễn Huệ, thì chỉ riêng về sự lựa chọn đề tài và các sự kiện lịch sử, cuốn sách chưa đạt đến sự cân xứng cần phải có. Phần viết về gia đình ông giáo Hiến và giai đoạn anh em nhà Tây Sơn khởi nghiệp quá dài so với những trang dành cho sự nghiệp của Nguyễn Huệ. Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút và chiến công đại phá quân Thanh mà chỉ diễn tả ngắn ngủi qua mấy trang ghi chép của nhân vật Lãng thì làm sao thể hiện được thiên tài quân sự Nguyễn Huệ và tương xứng với những sự kiện lẫy lừng đó? Chỉ xét đơn thuần về số lượng trang - 14/2000 trang; tỷ lệ quá nhỏ này đã nói lên điều đó. (Cuộc đại phá quân Thanh chỉ ghi lại trong 14 trang ở chương 96); trong khi đó thì có những nhân vật không để lại dấu ấn gì trong lòng bạn đọc, cũng không ảnh hưởng gì đến nhân vật chính Nguyễn Huệ như vợ chồng Hai Nhiêu lại chiếm không ít số trang ở phần đầu sách. Chính sự không cân xứng đã tạo nên cảm giác nặng nề khi đọc phần đầu sách và đến phần cuối thì lại có cảm giác hụt hẫng.

Thực ra, trong văn chương, số lượng, dung lượng không phải là điều cốt yếu. Không hiếm những bài thơ Đường chỉ 4 câu mà khiến các bậc thức giả nhiều thế hệ bàn luận mãi về cái đẹp, cái hay của nó. Nhưng với tiểu thuyết lịch sử và nhất là theo cách diễn tả cẩn thận, điềm tĩnh của tác giả thì số lượng trang, sự phân bố đề tài không cân xứng, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tác phẩm. Hơn nữa, sự không cân xứng về “số lượng” ở đây còn làm cho nhân vật chính (Nguyễn Huệ) chưa làm thỏa mãn người đọc. Nói vậy thì kể ra cũng vô cùng, nhưng quả là người anh hùng Nguyễn Huệ qua những trang miêu tả chiến trận chưa thấy “bay lên“ cho xứng với một nhân vật thiên tài quân sự, do đó chưa tạo nên cảm hứng lớn lao và đẹp đẽ trong lòng người đọc trước một nhân vật xuất chúng. Công bằng mà nói, so với Nguyễn Huệ đã có trong sử sách, thì người anh hùng nông dân do Nguyễn Mộng Giác dựng nên đã có “da thịt” hơn nhờ những mối quan hệ với ông giáo Hiến, với An và nhiều nhân vật xung quanh được diễn tả cả về mặt tâm lý, đạo lý và đời sống thường ngày. Tiếc rằng, tác giả đã không tạo được những cao trào, những “điểm nhấn” khiến người đọc rung động sâu sắc. Có thể dẫn ra một ví dụ rất dễ thấy: một nhân vật như Nguyễn Huệ, trước cái chết có bao điều suy ngẫm về sự thắng bại, về tình yêu, về lẽ đời phải trái mang ”sức nặng“ tư tưởng rất đáng được “khai thác” kỹ; nhưng tác giả đã bỏ qua và thay bằng một dòng thông tin vô cảm: “Hôm sau, Bến Ván biết tin vua Quang Trung vừa băng hà hôm 29 tháng 7...”! Thật là tiếc! Tiếc một cơ hội để làm rõ hơn tư tưởng tác phẩm. Cũng có thể nói đây là một “phẩm chất văn học” nữa của tác phẩm chưa tương xứng với độ dày và đề tài của cuốn sách. Nhân vật ông giáo Hiến và không ít sĩ phu khác đã rõ là tư tưởng “hủ Nho”; Kiên (con giáo Hiến) sau chặng đời long đong đã tìm đến cửa Phật; nhưng còn tư tưởng của tác giả và tác phẩm? Do tôi chưa suy ngẫm kỹ để thấy rõ, hay tác giả chưa tiện viết hết những suy tưởng của mình? Điều này, hẳn phải chờ dịp tác giả về thăm lại Huế mới hỏi rõ được.

Một đời văn có được mươi lăm trang toàn bích đã là khó, huống chi những 2000 trang thì có chỗ chưa thật mỹ mãn cũng là lẽ đương nhiên. Vả chăng, thiên hạ bách tính mà! Và cho dù “Sông Côn mùa lũ” còn những điều bất cập chưa làm thỏa mãn người đọc thì đóng góp của tác giả cũng thật đáng trân trọng.

Huế, tháng 10/1999
N.K.P
(134/04-00)


---------------------------------
(*) NXB Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...