“Phù sa biển” của Ngô Minh

17:07 02/06/2008
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

Nhưng với Phù sa biển của Ngô Minh vấn đề lại là khác. Ngô Minh sinh trưởng ở một làng biển ở Quảng Bình, đó là điều rất quan trọng để hiểu tính cách của tác giả, để hiểu được những khát vọng và những kỷ niệm mặn mà thời tuổi dại. Ngô Minh đã theo đuổi việc học từ một ngôi trường ở làng quê, điều ấy giúp anh có một cái nhìn chân thật về bạn bè. Cuối cùng, cũng như các thanh niên cùng lứa tuổi, Ngô Minh đã đi bộ đội và tham gia giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh; điều giúp tác giả có một cái nhìn tổng kết thẳng thắn về cuộc đời, và những tình cảm lớn khác trong thơ. Xuất ngũ, anh lại làm thơ và chỉ làm thơ (đây là tập thơ thứ 9 đã xuất bản của anh). Ngô Minh là một con người biết chí tình với thơ trong cuộc sống.
Phù sa biển” vì thế đảm bảo được tính chất sang trọng của một tập thơ; của sự tinh tế về tâm hồn và sự chín muồi của ngôn ngữ.
Những người dân nghèo quê tôi thường đi đãi vàng dọc những dòng sông, tìm đến tận nơi nước chảy đá mòn. Phải nhiều tấn cát đãi trong dòng nước mới may ra nhặt được một chút vàng nhỏ bằng hạt tấm, cất vào trong chiếc ống lông ngỗng nhỏ xíu. Một thi nhân đời Trần còn để lại cái tên một tập thơ, gọi là “Phi sa tập”, nghĩa là đãi cát (tìm vàng). Dĩ nhiên thôi, vì thơ hay ngày càng hiếm. Nhưng không thể nào phụ bạc thơ được. Ôi, người đời Trần còn thế!
Tập thơ Phù sa biển đến tay tôi như một lời an ủi. Thêm một lần nữa tôi nhận ra sự đãi cát tìm vàng của người dân nghèo quê tôi là một điều thận trọng đáng giá; cho tôi gửi đến tác giả một lời chào biết ơn.

Thơ Ngô Minh hay vì đủ bản lĩnh nghề nghiệp để tìm thấy cái hay từ những chuyện nho nhỏ thường ngày. Thật sự thì không cái nào là nhỏ; mỗi một kinh nghiệm sống đạt đạo đều đáng quý cho thơ. Và nhà thơ là người có “con mắt xanh”, nghĩa là con mắt biết cách phân biệt to nhỏ khác với thường tình. Ngô Minh có một tuổi thơ lớn lên từ một ngôi làng cát ven biển, hàng ngày say mê ngắm hiện tượng biển sinh. Cứ một tháng hai lần, biển tự nhiên rạo rực, sôi động hẳn lên, những con sóng cứ cồn cào ném những vật lạ trong lòng biển lên bờ, sau đó nước biển đục ngầu vì chất biển mới. Ngô Minh tuyên bố:
                        Đây tuổi trẻ của ta
                        đây tình yêu của ta
                        kia nhánh san hô tận cùng đáy cát
                        lắc lư sắc biển chói loà
Lớn lên, khi đủ tuổi chiêm nghiệm, Ngô Minh gọi đó là Phù sa biển!
Phù sa biển
đã nuôi trồng tâm hồn tác giả không phải bằng nhung lụa, mà bằng những hình ảnh thân thuộc như những người thân yêu, những gương mặt bạn bè đã gặp, và những miền đất đã đi qua. Những người thân, trước hết là mạ, là một niềm yêu dấu khôn nguôi trong đời chàng: “Biển đêm là nỗi buồn của mạ/ Sóng xao giấc ngủ chập chờn/ Nhưng miếng trầu thì mãi đỏ thơm...”; là cái dáng thi sĩ của chính mình thời thơ ấu: Cây san hô ngời ngời sắc lửa/ Nơi tận cùng lòng biển thẳm sâu; là người anh của chàng: anh tôi là vết chém của sóng... Và chị nữa: Chị tôi khuất nẻo lâu rồi/ Đêm qua trong giấc mơ tôi chị về... Phải thừa nhận rằng, hình như từ thời Nguyễn Bính trở đi, hình tượng người chị đã bị lãng quên trong văn học Việt . Vì nét tâm hồn của người chị rất giống với người mẹ. Hình ảnh và số phận của người chị đầy ắp trong các làng quê Việt , và may sao có một thế hệ em trai đi xa (như Ngô Minh đây, và như nhạc sĩ Trần Tiến chẳng hạn) bỗng chợt nhớ và nhắc đến. Đằng sau những khuôn mặt thân thiết ấy là một ngôi làng biển, ngôi làng hàm chứa một cách vô tận những ý nghĩa mới của sự vật, khiến cho một cánh chuồn chuồn đậu trên ngọn cỏ ven đường cũng óng ánh hẳn lên như một giọt nước mắt tuổi thơ bị thời gian bỏ quên: cành khô con chuồn đậu - như giọt thời gian quên. Và nhiều khi giữa những biến động xô bồ của cuộc sống, Ngô Minh lại tìm về ngôi làng ấy, để nghe tiếng gọi tha thiết của mình chợt trở thành một tiếng ve đêm âm vang từ thế giới tâm tưởng: Em em em em... tiếng ve màu trắng... tiếng ve màu tro... Ở trung tâm của thế giới thần thoại ấy, luôn cư ngụ một “cái tôi” nhân hậu và khẳng khái; vẫn mãi mãi đem lại cho thế giới tính chất phong phú, và nhiều vẻ, và tưởng như có thể nuôi sống được thân xác; Cái tôi ấy quan trọng đến nỗi, nếu nó mất đi sẽ kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ thế giới đang tồn tại bên nó!
                        lung linh ấy chẳng là gì cả
                        trước bao điều đang lay động trùng khơi

Có những phút mềm yếu, tôi không còn kỳ vọng vào thơ, tôi định đi tìm nguồn an ủi ở một chỗ khác. Nhưng tôi chợt nhớ lại câu thơ này của anh Phùng Quán:
                        Có những phút ngã lòng
                        Tôi vịn câu thơ đứng dậy
thì tâm hồn tôi chợt tìm thấy một sức quật khởi mới mẻ, và tôi lại cất bước.

Phù sa biển là một tập thơ hiếm hoi đã mang lại cho tôi cái quyền hạn được ban bố ý nghĩa cho những vật tầm thường quanh ta; tập thơ đã vẽ nên một chân dung con người biết sống đôn hậu và đầy sức mạnh.
Huế 30 - 8 - 2001

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
(nguồn: TCSH số 152 - 10 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.