VÕ BÙI LÊ LAM
Hình chụp Bìa 1 và một tranh minh họa trong Bản dịch năm 1970 - Ảnh: tư liệu
1. Sưu tầm Nhật ký trong tù bằng các ngôn ngữ Bắc Âu
Có lẽ cùng với Truyện Kiều, Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất của văn học Việt Nam. Cho đến nay tập thơ này đã được dịch ra bao nhiêu ngôn ngữ và có bao nhiêu bản dịch? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi thử tìm hiểu qua internet và nhận được những con số khác nhau về số ngôn ngữ, theo các năm ghi trong dấu ngoặc đơn: 11 (2015)1, 25 (2007, 2013)2, 30 (2013)3, 32 (2013)4. Với mong muốn được biết rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi thử tìm hiểu và sưu tầm các bản dịch Nhật ký trong tù sang các ngôn ngữ Bắc Âu.
Trong các bài viết về Nhật ký trong tù đã được dịch sang tiếng nước ngoài mà chúng tôi đọc được chỉ thấy nhắc đến hai ngôn ngữ ở Bắc Âu đã có Nhật ký trong tù là tiếng Đan Mạch và tiếng Thụy Điển. Nhưng qua tìm hiểu, chúng tôi được biết ở Bắc Âu còn có Nhật ký trong tù bằng tiếng Phần Lan và tiếng Na Uy đã được dịch và xuất bản cách đây hơn nửa thế kỷ.
Nhật ký trong tù bằng tiếng Phần Lan có tên Ho Tsi Minh: Poliittisen vangin runot do nhà thơ Phần Lan, Pentti Saarikoski dịch, được xuất bản ở Helsinki lần đầu tiên vào năm 1969, sau đó được tái bản 2 lần vào năm 19705. Còn Nhật ký trong tù bằng tiếng Na Uy có tên Ho Chi Minh: Dagbok frå fengslet do nhà thơ Na Uy, Tor Obrestad dịch, được xuất bản lần đầu tiên ở Oslo năm 1969 và lần thứ hai năm 19736.
2. Bản dịch Nhật ký trong tù bằng tiếng Thụy Điển
Với sự giúp đỡ của Thư viện Quốc gia Thụy Điển và Thư viện Trường Đại học Lund (Thụy Điển), chúng tôi đã tìm được hai bản dịch Nhật ký trong tù bằng tiếng Thụy Điển là Dagbok från fängelset (Nhật ký trong tù) và Ho Chi Minh - Dikter (Hồ Chí Minh - Thơ) của nhà thơ, dịch giả Jan Kunicki. Trong một bài viết năm 2013, dịch giả Thúy Toàn có liệt kê Nhật ký trong tù bằng một số ngôn ngữ, trong đó có tiếng Thụy Điển, song chúng tôi không biết bản nào trong số hai bản dịch này được tác giả nói đến. Chúng tôi đồ rằng Dagbok från fäng có thể là bản dịch đã được sưu tầm và nói đến trong bài báo mà tôi đọc được.
![]() |
Ảnh chụp Trang bìa và 3 trang giữa của bản dịch Dikter |
2. 1. Ho Chi Minh - Dikter (Hồ Chí Minh - Thơ)
Là một cuốn sách mỏng khổ nhỏ (brochure) gồm 6 trang có kích thước 24,5 x 11cm, với 27 bài thơ có trong tập Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Jan Kunicki dịch sang tiếng Thụy Điển, do Författarcentrum (Trung tâm tác giả) xuất bản tại Stockholm vào năm 1969. Trong bản dịch này, tác giả không cho biết các bài thơ được dịch từ nguồn nào.
Ở trang bìa và cũng là trang 1, nửa trên in bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, phía dưới ảnh là dòng chữ HO CHI MINH và DIKTER. Còn nửa dưới có bài thơ Efter läsningen av “De tusen poeternas antologi” (Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”). Còn 5 trang khác, bên cạnh các bài thơ, phía cuối của mỗi trang có in một bức tranh khắc gỗ nghệ thuật dân gian Việt Nam rất đẹp. Để có được bản photocopy bản dịch hiếm hoi này, từ thông tin của Thư viện Quốc gia Thụy Điển, chúng tôi đã đăng ký với dịch vụ mượn quốc tế của Thư viện công cộng Helsinki. Sau hai ngày đăng ký, chúng tôi nhận được tin báo, tài liệu này quá cũ và hiếm nên Thư viện Thụy Điển không cho mượn mà chỉ phục vụ photocopy với giá 8 euro. Sau 1 tuần, tôi nhận được thư báo đến thư viện gần nhà ở Helsinki nhận bản photo và hết sức bất ngờ không phải trả tiền, vì chất lượng bản photo không còn được tốt.
2. 2. Dagbok från fängelset (Nhật ký trong tù).
Dagbok från fängelset gồm 142 trang in trên giấy thô, khổ 15 x 19,5cm, do FIBs Lyrikklubb (Câu lạc bộ Thơ Thụy Điển) xuất bản lần đầu năm 1970 và tái bản năm 1975. Đây là bản dịch Nhật ký trong tù có dung lượng lớn nhất trong bốn bản dịch tiếng Bắc Âu, với Lời giới thiệu gồm 9 trang (tr.7-16), 3 trang “Sự thật về Nhật ký trong tù” - dịch nội dung trả lời phỏng vấn nhà báo phương Tây của Chủ tịch Hồ Chí Minh được in trong bản dịch tiếng Pháp của Phan Nhuận (tr.17-19), 2 trang giới thiệu và phân tích bài thơ “Ra tù tập leo núi” (tr. 20- 21). Bài thơ này còn được in lại ở bìa 4, phía dưới tiểu sử tóm tắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phần Nội dung gồm 97 bài thơ được dịch sang thơ tự do Thụy Điển, trong đó có 28 bài đã đăng trong Ho Chi Minh - Dikter, với một số chỉnh sửa nhỏ. Sau phần nội dung có tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (tr. 133-138) và chú thích có trong các bài thơ (tr. 139-140). Bên cạnh các phần trên, Dagbok från fängelset còn có 5 bức tranh minh họa bằng vải cắt của họa sĩ đồ họa Thụy Điển, Svenolov Ehren (1927 - 2004). Trong lời giới thiệu, Jan Kunicki cho biết: “Hồ Chí Minh viết “Nhật ký trong tù” không phải bằng chữ Quốc ngữ mà bằng chữ Hán cổ. Tôi không biết tiếng Hán cổ. Tôi đã dịch tất cả những bài thơ này từ tiếng Ba Lan, một số bài tôi có so sánh bản dịch của mình với bản dịch tiếng Anh.”
Đáng chú ý hai lần ông dẫn lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại từ Tuyên ngôn của nước Mỹ trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra còn kể lại một số hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm đi tìm đường cứu nước và việc ông đã đọc được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời qua các phương tiện truyền thông thế giới như thế nào. Đây là Lời giới thiệu dài nhất (9 trang) trong các bản dịch Nhật ký trong tù sang các ngôn ngữ Bắc Âu và có lẽ của các bản dịch sang các ngôn ngữ khác.
3. Jan Kunicki - nhà thơ, dịch giả Ba Lan yêu quý Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Nam
Tôi thật bất ngờ khi biết được Jan Kunicki là nhà thơ, dịch giả người Ba Lan. Ông sinh ngày 1 tháng 7 năm 1938 tại Viareggio, Tuscany (Ý) và lớn lên ở Poznan (Ba Lan) trong một gia đình tương đối khá giả, cha là một bác sĩ đã tham gia cứu chữa cho nhiều nạn nhân trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở Ba Lan.
Năm 1961, khi ở tuổi 23, Jan Kunicki du lịch đến Stockholm (Thụy Điển) và ở lại đây không trở về Ba Lan nữa. Sau hai năm sống ở Uppsala và Stockholm, Kunicki chuyển đến Lund, cách Stockholm khoảng 600km về phía tây nam. Bạn bè Thụy Điển vào cuối những năm 1960 gọi Jan Kunicki với tên thân mật là Isio. Là một người yêu thích văn học, Kunicki đã kết giao với các nhà văn và nghệ sĩ Thụy Điển. Kunicki đã học tiếng Thụy Điển và bắt đầu dịch các tác phẩm văn học, sân khấu và điện ảnh Ba Lan sang tiếng Thụy Điển. Ông cũng sáng tác thơ bằng tiếng Thụy Điển.
Tập thơ đầu tiên Det är enkelt att leva (Thật dễ sống) của Kunicki được nhà xuất bản Bo Cavefors xuất bản năm 1977. Đó là những bài thơ tự truyện, được viết từ năm 1974 đến năm 1977. Các bài thơ viết về Thụy Điển, quê hương mới của ông, về sự cô đơn và chủ đề chiến tranh. Chiến tranh cũng là chủ đề trong tập thơ cuối cùng của ông, mang tên “Krig och fred” (Chiến tranh và Hòa bình), được đăng trọn trên số 22 năm 2004 của Tạp chí Văn hóa Serum từ Malmö. Trong các bài thơ này, Jan Kunicki viết về những ký ức thời thơ ấu của mình từ Thế chiến thứ hai ở Ba Lan. Các bài thơ mô tả sự áp bức của Đức quốc xã và khao khát hòa bình.
Theo dữ liệu từ Thư viện Quốc gia Thụy Điển, Jan Kunicki đã sáng tác và dịch tổng cộng 18 tác phẩm, trong đó có 4 sáng tác (2 vở kịch, 2 tập thơ), 12 tác phẩm dịch chung và 2 tác phẩm dịch riêng là Dikter (1969) và Nhật ký trong tù, xuất bản lần đầu năm 1970 và tái bản năm 1975. Trong bản dịch năm 1969, Jan Kunicki không nói 27 bài thơ của Hồ Chủ tịch ông dịch từ nguồn nào. Nhưng ta có thể đoán được ông dịch từ bản dịch tiếng Ba Lan có tên Dziennik więzienny (Nhật ký trong tù) do vợ chồng nhà thơ Ba Lan, Maria Kurecka & Witold Wirsza dịch và nhà xuất bản Państwowy Instytut Wydawniczy xuất bản năm 1962.
![]() |
Bia tưởng niệm và khu mộ vô danh ở Nghĩa trang Lund |
![]() |
Người viết tại khu mộ vô danh ở Nghĩa trang thành phố Lund, tháng 6-2022 |
Trong suốt thời gian ở Thụy Điển, Jan Kunicki sống trong cảnh nghèo khó, chủ yếu ở Lund và nhiều năm không có nhà. Tuy vậy, vốn là một người có tư tưởng cánh tả, ông đã tham gia rất tích cực trong phong trào phản đối chiến tranh, đòi hòa bình cho nhân dân Việt Nam. Jan Kunicki qua đời ngày 13 tháng 3 năm 2008 ở tuổi 69 tại Lund sau một thời gian lâm bệnh. Tang lễ của Kunicki được tổ chức tại Nhà nguyện Phục sinh ở Nghĩa trang Norra Kyrkogården của thành phố Lund ngày 24/4/2008.
Với mong muốn tìm đến nghĩa trang này để tìm và viếng mộ Jan Kunicki, như đã từng đến viếng mộ nhà thơ, dịch giả Nhật ký trong tù bằng tiếng Phần Lan, chúng tôi đã liên lạc với Ban quản lý nghĩa trang Norra Kyrkogården. Chỉ 2 ngày sau khi gửi email đi, chúng tôi nhận được email trả lời từ một người phụ trách nghĩa trang cho biết Jan Kunicki không có mộ và bia riêng mà bình tro cốt của ông được chôn xuống một khu vực ẩn danh gọi là “minneslund” (tiếng Thụy Điển) của Nghĩa trang. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã đặt vé đi Lund và đến tận Nghĩa trang Norra Kyrkogården để thăm nơi có chôn bình tro cốt của ông, song vì đại dịch Covid-19 thêm chủng mới Omicron ở cả Phần Lan và Thụy Điển nên chúng tôi đành hủy chuyến đi.
Qua một số bài viết của các đồng nghiệp của Jan Kunicki mà chúng tôi đọc được, không thấy nói đến gia đình riêng của ông. Có lẽ Jan Kunicki không lập gia đình và không có con. Chúng tôi cũng đã nhờ người bạn hiện ở Warszawa tìm hiểu thêm về Jan Kunicki từ các Thư viện và Lưu trữ ở Ba Lan, song đáng tiếc là không tìm được tư liệu gì bằng tiếng Ba Lan và ở Ba Lan về ông.
Như vậy, từ một số tư liệu ít ỏi bằng tiếng Thụy Điển, giờ đây chúng tôi chỉ biết được Jan Kunicki đến Thụy Điển năm 23 tuổi. Sáu năm sau (1969), với tình cảm yêu quý, khâm phục Chủ tịch Hồ Chí Minh và cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam ở tuổi 29, ông đã dịch và công bố 27 bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh sang tiếng Thụy Điển và 1 năm sau (1970), ông đã dịch tiếp 69 bài thơ khác trong Nhật ký trong tù và xuất bản lần thứ nhất. Năm 1975, bản dịch này được xuất bản lại lần thứ hai. Hiện nay cùng với 16 tác phẩm khác, hai bản dịch Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Jan Kunicki thực hiện có mặt ở 26 thư viện công cộng trên khắp Thụy Điển.
V.B.L.L
(TCSH46SDB/09-2022)
------------------------------
1https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tap-nhat-ky-trong-tu-cua-bac-ho-da-duoc-dich-ra-bao-nhieu-thu-tieng-va-dich-tu-nm-nao-2109
2http://www.tapchivannghedatto.org.vn/tintuc.aspx?ID=687
3 http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ban-be-quoc-te-va-tac-pham-nguc-trung-nhat-ky--557
4 https://nhandan.vn/vanhoa/ra-mat-ban-dich-nhat-ky-trong-tu-tieng-an-ba-ni-245687/
5 https://kinhtedothi.vn/ban-dich-nhat-ky-trong-tu-bang-tieng-phan-lan-chua-duoc-biet-den-409560.html
6 https://vietvafin.wordpress.com/2021/01/20/mot-ban-dich-nhat-ky-trong-tu-bang-tieng-na-uy-chua-duoc-biet-den/
HIỀN LÊ
Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.
Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.
JEAN-CLET MARTIN
Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.
Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.
MARKUS GABRIEL
Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.
ĐỖ LAI THÚY
M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…
THÁI THU LAN
Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.
NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG
Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.
ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)
Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.
LƯU TÂM VŨ
hồi ký
LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.
Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.
ALAN BURNS
William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.
Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.
NHƯ QUỲNH DE PRELLE
Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.
HÂN QUY
(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)
PATRICIA HIGHSMITH
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.
LỖ TẤN
Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy.