“Nghệ nhân và Margarita” một tác phẩm vượt thời gian

10:01 04/11/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

Tôi đọc lần đầu tác phẩm lớn này từ mười mấy năm trước(1) (cùng với tiểu thuyết “Trái tim chó” của cùng tác giả), câu chuyện cụ thể đã quên, nhưng ấn tượng bàng hoàng sau khi gấp sách lại vẫn rõ nét đến mức, trong tham luận tại Hội nghị phê bình lý luận (lần 2) tại Đồ Sơn, tôi đã đưa “NNVM” dẫn chứng cho lập luận”...bất cứ “chủ nghĩa” nào cũng không nên tôn thành ngọn cờ, thành “phương pháp” buộc các văn nghệ sĩ phải theo. Nói cách khác, trong văn chương, không có chuyện “chủ nghĩa” nào hết! Trước trang giấy trắng (hay trước màn hình vi tính) nhà văn không vướng bận gì đến các “chủ nghĩa” đã (hoặc sẽ) được đúc kết thành “giáo điều”(2). Quả là lần này, đọc lại “NNVM” vừa được tái bản nhân kỷ niệm 115 sinh Bulgacov, tôi bắt gặp mấy dòng của nhà thơ Xô viết K.Simonov, tác giả bài “Đợi anh về” nổi tiếng: “Bulgacov có ba tài năng cùng song hành suốt đời tranh đoạt nhau vị trí số một: đó là tài năng của nhà văn trào phúng, tài năng của nhà văn giả tưởng và tài năng của nhà văn hiện thực.” Và chính nhờ không tự trói mình vào “chủ nghĩa hiện thực XHCN” đang thịnh hành ở Liên Xô hồi đó, nên mới có tuyệt tác “NNVM”. (Có phải vì thế mà chưa có nhà phê bình Việt nào “đụng” đến “NNVM”?)

Trớ trêu thay là chính vì vậy mà cuộc đời tác giả (1891-1940) cũng như nhiều tác phẩm của ông đã gặp vô vàn gian truân, mặc dù từ năm 1925, khi phần đầu tiểu thuyết “Bạch vệ” của ông ra mắt, nhà thơ M.Volosin đã đánh giá: “...Đây là một tác phẩm rất lớn và độc đáo; với tư cách là tác phẩm trình làng, chỉ có thể so sánh nó với sự ra mắt của Dostoevski và Tolstoi...” Tác phẩm này lập tức được ông chuyển thành kịch, đích thân Stalin xem 15 lần. Tuy vậy, từ năm 1929, sau ý kiến Stalin cho rằng vở kịch “Chạy trốn” của ông là một hiện tượng chống Xô Viểt, trên báo chí có đến 298 bài buộc tội ông bôi nhọ cách mạng! Hầu hết các vở kịch và sách của ông bị cấm; ông xin làm người gác cổng cũng không ai dám nhận! Thật may là ông đã không tự sát như các tài năng hồi đó như nhà thơ Maiakovxki, nhà văn Fadeev... vì 4 ngày sau khi Maiacovxki bắn vào đầu tự tử (ngày 18/4/1930), đích thân Stalin gọi điện cho Bulgacov hứa giúp đỡ... và ông đã vứt khẩu súng đã nạp đạn sẵn...

Mặc dù suốt từ đó cho mãi đến gần một phần tư thế kỷ sau khi ông mất, tác phẩm của Bulgacov không được in dòng nào, nhưng ông đã không buông bút. Nhờ đó, mới có “NNVM”, một tác phẩm đỉnh cao của ông và của văn học Nga thế kỷ 20, được dịch in và dựng thành phim, kịch ở nhiều nước trên thế giới. Và không thể kể hết những công trình nghiên cứu về tác phẩm đặc biệt này.

Bulgacov viết “NNVM” trong 12 năm (1928-1940) với cái tên dự định là “Tiểu thuyết về quỷ sứ”, từng bị xé, bị đốt, viết đi viết lại 7 lần! Một cuốn sách không dễ đọc, nhưng lại có sức cuốn hút và ám ảnh kỳ lạ. Không dễ đọc, trước hết vì độ dày của nó (gần 800 trang khổ lớn), vì hệ thống nhân vật đông đảo (506 nhân vật - 156 có tên và 249 vô danh), nhưng chủ yếu vì nó không tầm thường, không chỉ là kiểu “tiểu thuyết trong tiểu thuyết” (“2 trong 1”) mà nhân vật, sự kiện của hai tiểu thuyết cách nhau đến... 1900 năm, lại thật-hư lẫn lộn... Tuy vậy, nó vẫn cuốn hút vì cách viết mới lạ, vì độc giả như được sống, được bay lượn trong một thế giới khác - với cách “phù phép” của nhà hắc ảo thuật Voland từ nước ngoài đến, các nhân vật có thể `tàng hình, hoá thân, bay khắp nơi, trò chuyện với người đã chết... Điều thú vị là nhờ sống trong “thế giới khác”, chúng ta có cơ hội được thấy rõ chân tướng của cuộc sống thật hôm nay (trong sách là hiện thực xã hội ở thành phố Moskva những năm 20-30 của thế kỷ trước, khi Liên Xô thực hiện chính sách “kinh tế mới”; cũng gần giống hoàn cảnh Việt Nam thời kỳ đầu”Đổi Mới”). Cuộc sống sau bao năm tù hãm vừa được “giải phóng” đã bị bóc trần với đủ trò lố lăng bi-hài. Ví như cảnh đoàn người rồng rắn xếp hàng mua vé trước Nhà hát Tạp kỹ vì nghe đồn đêm qua cả ngàn con người đến xem đã tha hồ nhặt các tờ bạc 10 rúp (đồng tiền Liên Xô), còn quý bà quý cô thì chen nhau lột áo xống cũ để đổi lấy những bộ cánh theo “mốt” mới, nhưng thực ra, do Voland phù phép, khi chị em ta ra khỏi nhà hát thì trên mình chỉ còn đồ lót và hôm sau những tờ 10 rúp đã biến thành giấy lộn. Rồi cảnh cả đoàn người xếp hàng để xin căn hộ của Berlioz, khi nghe tin ông vừa bị xe điện chẹt chết. (Ông là “Chủ tịch Hội Nhà văn Moskva, Tổng biên tập một tờ tạp chí lớn, đọc nhiều biết rộng, vẻ ngoài hiền lành, lịch sự, dưới ngòi bút của Bulgacov, ông ta hiện lên thành một hiện tượng xã hội đáng sợ. Với tư cách là người “lãnh đạo” văn học, chính ông ta đã góp phần biến văn học thành thứ nghệ thuật khẩu hiệu thô thiển kiểu thơ Riukhin, đã dung túng khuyến khích các nhà phê bình đồ tể kiểu Latunski...” - Trích từ bài của Đoàn Tử Huyến) ; rồi các vị chức sắc ăn hối lộ, hám đô-la, ngoại tình vụng trộm... dần lộ mặt...

Tiểu thuyết “NNVM” hấp dẫn, giàu tính trí tuệ còn vì đề tài mà “Nghệ nhân” (nhân vật chính của “NNVM” và là “cái tôi thứ hai” của tác giả) chọn để viết cuốn tiểu thuyết chính là câu chuyện đã xảy ra 1900 năm trước với hai nhân vật chính là quan tổng trấn Ponti Pilat và Christ Giesu. Cuốn tiểu thuyết bị những tên Giuda “hiện đại” xúc xiểm, tố cáo, không ai dám in, tác giả bị đưa vào bệnh viện tâm thần sau khi đã cho bản thảo vào lửa. Thật may là tình yêu vĩ đại của Margarita đã cứu được bản thảo và giải thoát “Nghệ nhân” cuộc sống bế tắc...
Đã có nhiều tác phẩm văn học dựa vào các sự kiện trong Kinh Thánh, nhưng Bulgacov chỉ tập trung xoay quanh tâm trạng của Pilat trước và sau khi chàng trai quê ở Nazaret bị hành hình trên Núi Trọc (còn gọi là “đồi Sọ”). Quan tổng trấn tuy có thiện cảm với “nhà triết học lang thang rách rưới”, từng muốn cứu chàng khỏi tội chết (bằng cách gợi ý cho chàng chối bỏ việc tên Giuda tố cáo rằng chàng đã nói những lời xúc phạm đến Hoàng Đế...), nhưng rồi vẫn tuyên án tử hình và sau đó thì ân hận. Nhân vật Pilat hèn nhát không dám từ bỏ danh vọng, bổng lộc để thực hiện thiện chí của mình cứu người vô tội vì dù sao y cũng là vị quan của Hoàng Đế để rồi lương tâm cắn rứt cho mãi...1900 năm sau (cảnh gặp lại Chúa Giesu ở cuối tiểu thuyết) cũng như hình ảnh kẻ từ tù không thể nói dối để giữ mạng sống (chàng đã đáp lại “gợi ý” của quan tổng trấn: “Nói sự thật dễ dàng và dễ chịu hơn...”) và việc anh nhường những giọt nước lúc sắp chết khát cho tên tội phạm bên cạnh trên Núi Trọc có ý nghĩa đến muôn đời vì nó tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giữa THIỆN và ÁC của nhân loại...

Giới thiệu Bulgacov và NNVM, dịch giả Đoàn Tử Huyến đã viết:
“Hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử. NNVM là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Bulgacov, một trong những đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ Nga... Đây là công trình dịch thuật lớn nhất, công phu và tâm đắc nhất của tôi...
...Bi kịch của Nghệ Nhân là anh không được người đương thời hiểu và đánh giá đúng. Nó cũng là bi kịch của đời riêng Bulgakov và nhiều thiên tài khác. Nhưng ở đây có điểm khác biệt giữa cuộc đời Nghệ Nhân và đời thực của nhà văn: Bulgacov đã đấu tranh quyết liệt cho số phận của mình, còn Nghệ Nhân thì không. Có lẽ điều khác biệt này thể hiện lập trường của Bulgacov trong nghệ thuật. Về điều này một nhà nghiên cứu Bulgacov viết: “Nghệ Nhân không phải là chiến sĩ. Nghệ Nhân là nghệ sĩ. Mỗi người cần phải là chính mình. Và Nghệ Nhân, hơn bất kì một ai khác, đã sống đúng là mình -là hiện thân vừa của sức mạnh vô biên, vừa của sự yếu đuối vô bờ của sự sáng tạo.

Tất nhiên, mỗi nhà văn, như bất kì một nghệ sĩ nào, cũng mong muốn thành đạt. Nhưng một nhà văn lớn không chỉ sáng tác vì sự thành đạt. Bởi vì ý nghĩa của sự sáng tạo dù sao cũng không ở sự thành đạt, mà là ở trong một cái gì khác. Mục đích của sự sáng tạo là sáng tạo, và sự đánh giá tối cao đối với sự sáng tạo là sự tự đánh giá của chính bản thân người nghệ sĩ. Và nghĩa vụ của nhà văn, nói thẳng ra, kết thúc khi tác phẩm của anh ta kết thúc. Cuộc đấu tranh vì sự công nhận đã là một cốt truyện khác, một chủ đề khác, của tác giả và cuốn tiểu thuyết khác... Có lẽ chính vì vậy mà Bulgacov đã chọn cho Nghệ Nhân - mà cũng  chính là chọn cho mình - phần thưởng sau khi chết là sự yên tĩnh, phần thưởng dành cho những tâm hồn mệt mỏi, chịu đau khổ nhưng lương tâm trong sạch và thanh thản...”

Chính vì thế, một nhà văn nổi tiếng người Gruzia đã đánh giá Bulgacov “đã là người đương thời của cha ông chúng ta, đang là người đương thời với chúng ta và sẽ là người đương thời của con cháu chúng ta” - nói một cách khác: NNVM là một tác phẩm vượt qua thử thách của thời gian, một tác phẩm “trường Xuân bất lão”.
                                                N.K.P

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 



---------                                                                                                                   
(1) Theo bản in của NXB Cầu Vồng & NXB Tác phẩm mới, năm 1989.
(2) Xem toàn văn trong tạp chí “Sông Hương” số 11/2006. Xin nhắc lại rằng từ năm 1939, trên báo “Dân tiến”, chính nhà nghiên cứu Mác-xít Hải Triều đã viết những câu tương tự: “Bao giờ và ở chỗ nào cũng thế, nhà văn cần phải có tự do mới có thể sáng tạo được những công trình bất hủ. Gạch ra một con đường buộc họ phải theo là một sự điên rồ...”

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.