NGUYỄN THÀNH NHÂN
Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.”
Ảnh: internet
Rất nhẹ nhàng, rất khẽ khàng, và không hề chủ tâm áp đặt, với câu văn mở đầu Chương 1, Hoàng Mai đã êm ái mở ra một cõi mơ. Và bất giác, những người đọc chúng ta cũng chìm vào một nơi chốn mơ màng, trôi theo những hình ảnh, những tư duy, xúc cảm chập chờn, hư ảo.
Kể từ câu văn đầu tiên đó, những từ “ngủ mơ”, “giấc mơ”, “giấc chiêm bao”, “cơn mộng ảo”… cứ lặp đi lặp lại, ướt đẫm từng chương, từ đầu tới cuối tác phẩm. Những giấc mơ với mọi sắc màu, ảnh tượng, có thật và không có thật, đan bện vào cảm xúc nhân vật, đồng vọng những tiếng cười, tiếng khóc, tiếng nức nở âm thầm…
Và khi ta khép sách lại, dường như âm vang của những giấc mơ vẫn còn nhoi nhói.
Có lẽ ít có tác giả trẻ nào mượn những giấc mơ để chuyển tải một câu chuyện vốn chạm vào một loạt vấn đề thuộc loại gay go và sâu sắc hàng đầu của tuổi trẻ đương thời: mơ ước, thất vọng, tuyệt vọng, cô đơn, sự phù du của cuộc đời và tình yêu, sự rạn nứt lặng lẽ của gia đình, tình yêu (khác giới và đồng giới), và những nỗi đau thầm kín, vân vân. Đặc biệt là những nỗi đau thầm kín; của những cô gái bị xâm hại tình dục khi còn thơ ấu. Tác giả không trực tiếp lên án những kẻ phi nhân có hành vi tội lỗi đó, nhưng còn lời lên án nào nghiêm khắc cho bằng việc mô tả “cực kỳ hiện thực” những nỗi đau, những ám ảnh kéo dài của các nạn nhân.
Tôi xin không đi sâu vào phân tích những chủ đề nói trên, chỉ nêu ra một số trích dẫn “nặng ký” nhất, để độc giả tùy nghi cảm nhận và đánh giá. Những đoạn văn này tự thân chúng đã nói lên rất nhiều điều:
NỖI CÔ ĐƠN:
“Không phải chỉ Chi đâu, không phải chỉ tôi đâu, mới là những kẻ lạc loài… Dường như bất kỳ ai trên thế giới cũng có lúc là một đứa trẻ tội nghiệp nhất với câu chuyện đáng thương của riêng mình. Tất cả chúng ta đều cô đơn. Làm gì có một ai không mang trong mình một, một vài vết thương chứ? Và những đứa trẻ của một gia đình không toàn vẹn lại tiếp tục xây nên một gia đình không toàn vẹn khác.” (Trang 231).
Hay:
“Rồi càng lớn, em càng cảm giác rằng em không được giống với tất cả mọi người. Em không thể lớn giống như họ. Có một ngày em nghĩ rằng mình phải thực tế, phải trưởng thành mau thôi, thì bỗng chốc em nhận ra em không giống với chính mình nữa. Cuộc sống của em thậm chí còn tồi tệ hơn khi lột bỏ những mơ mộng điên rồ, niềm tin ảo tưởng. Tận sâu trong trái tim không ngừng mâu thuẫn, dằn xé. Không biết mình là ai, cứ kẹt lại mãi, ở một nơi chốn lưng chừng.” (Trang 243 - 244).
SỰ PHÙ DU CỦA CUỘC ĐỜI VÀ TÌNH YÊU
“Khi đợt pháo hoa đắm say cuối cùng tắt đi, là mọi giấc mơ cũng sẽ biến mất... Đó là thông lệ, báo hiệu sự kết thúc của Lễ Hội Phù Vân ở quê hương tôi. Và khi tôi nhìn quanh, mọi thứ bỗng trở nên hoang mang kỳ lạ. Nụ cười vẫn còn hồng trên môi mọi người, nhưng thoáng chốc những hạnh phúc đã kỳ vọng trở nên gượng gạo, như pháo hoa đã in trên nền trời, có gì đó vừa mới chết, vừa mới bợt phai đi.” (Trang 53).
“Chẳng tùy thuộc vào chuyện ta muốn hay không, tình cảm tự nó có quy luật của nó. Ký ức mà vẫn ngỡ mãi sống động trong em sẽ từ từ tan biến đi như tuyết tan dần trên những nhánh lá cây... Thực tế là vậy, rồi em sẽ quên tôi rất nhanh, và đó là cách mọi người chọn để lớn lên…” (Trang 135).
GIA ĐÌNH RẠN NỨT TRONG LẶNG LẼ
“Mỗi lần ba về là hai người cãi nhau suốt, ném mọi thứ vào nhau, những lời độc ác nhất... Em ghét người lớn, thực sự ghét họ, ban đầu em sợ lắm, còn không ngủ được. Nhưng về sau em nghĩ, tại sao họ không chia tay đi, chia tay cho rồi đi…” (Trang 77).
Hay:
“Tôi muốn hỏi thêm, đơn giản là hai người đã ly hôn chưa, ly hôn từ lúc nào, tại sao… tại sao. Và hàng vạn câu hỏi tại sao, nhưng chỉ thế thôi, rốt cuộc [tôi] đã im lặng. Cũng đã chẳng cần thiết nữa. Có những vết thương mà không ai công nhận, bởi nó có vẻ ngoài trông quá đỗi bình thường. Người ta lảng tránh nó đi mà thậm chí vẫn tin rằng họ làm đúng. Những người lớn ấy vẫn không bao giờ chịu nói sự thật, và tất cả mọi người trong gia đình chúng tôi vẫn chưa bao giờ có dịp ngồi lại cùng nhau để nói cho hết những hiểu lầm, khúc mắc.” (Trang 207).
Hay:
“ ‘Gia đình’ chính là chủ đề mà hai đứa cảm thấy giống nhau, như thể những vết thương luôn có cách bắt nhịp cùng đồng bọn của nó. Chi cũng như tôi, có một gia đình phân mảnh. Như rất nhiều đứa trong bọn, tôi tin rằng một gia đình toàn vẹn trong thế hệ này là hết sức bất thường. Mà chắc thế hệ nào cũng thế thôi.” (Trang 230).
TÌNH YÊU ĐỒNG GIỚI NỮ
“…còn tôi bắt đầu nói như mê. ‘Tình yêu của em, tình yêu của mọi người… kỳ thực tình yêu là gì chứ? Tại sao những điều em cảm nhận thấy đều thật xa khác với hầu hết mọi người? Em không biết nơi đâu là sự thật nữa, liệu có thể tin vào thứ gì đây? Có gì không đúng đắn khi em yêu một người con gái…” (Trang 139).
NHỮNG NỖI ĐAU THẦM KÍN
“Ông ấy đã hỏi tôi có muốn học giỏi không, có muốn tốt đẹp không. Tôi nói rằng tôi có và đi theo ông ấy. Tôi để yên khi bàn tay ông ấy luồn trong chiếc quần lót của tôi. Trong tranh tối tranh sáng, những ngón tay mũm mĩm khớp tay nổi rõ và rất bẩn. Tôi đông cứng lại, những cảm giác lần đầu tôi nhận thấy. Tôi không hiểu rõ đó là chuyện gì. Đứng yên tại chỗ, không thể thét lên. Rồi tôi vùng người chạy thật xa với một niềm tủi hổ, đau đớn cứ thấm mãi, dâng lên theo từng bước chân… Và dù tôi cố gắng miêu tả như thế nào, nó cũng cứ hài hước làm sao ấy. Nó thiếu mất một đoạn quan trọng nhất nên không bao giờ biết chắc sự thật là thế nào. Không sao nhớ được, cũng không chắc rằng đã bỏ sót điều gì không. Không biết rằng đó ký ức hay một sự tưởng tượng. Nếu là tưởng tượng - rất có thể là tưởng tượng - thì tại sao nó lại quá đau đớn đến như thế? Duy một điều tôi chắc nỗi đau ấy luôn trực diện ở đây, ngay trong tim tôi, trong đáy sâu tâm khảm của chính tôi, đợi chờ để đốn ngã tôi, bất kỳ lúc nào…” (Trang78).
Hay:
“Hơi thở ấy vẫn còn mãi bên tai tôi khi nhắm mắt, từng động chạm trên da thịt vẫn làm đau tôi như vừa mới hôm qua. Toàn bộ cơ thể này chẳng chứa đựng gì hơn, ngoài những vết thương đang mưng mủ, vẫn còn mưng mủ…
…Như thể một trò đùa, chị bị tổn thương và dày vò hết ngày này qua ngày khác. Tôi như vẫn còn trông thấy những hình ảnh ấy, như những cuộn phim chậm rãi trôi qua. Tôi nhìn thấy máu, nước mắt của chị, và những vết dao vạch trên cánh tay, trên cổ tay, khi cơ thể lớn dần lên.” (Trang 178).
*
Tác giả thuật lại câu chuyện qua lời của nhân vật “Tôi” theo cách kể chuyện thông thường, nhưng thi thoảng cũng điểm đôi chút thủ pháp “dòng ý thức”, và đặc biệt, ở Chương cuối, cô lại khai thác thủ pháp hiện thực huyền ảo, với nhân vật “Người Thu nhặt Ký ức”. Và, như đã nói, câu chuyện dù rất thật, lại cũng “rất mơ”. Hiện thực đời sống, qua phương tiện “những giấc mơ”, trở thành một cái gì đó hư ảo chập chờn, lung linh như bóng trăng dưới nước. Một bạn đọc duy lý có thể tìm thấy ở nơi này nơi khác đôi ba chi tiết không logic lắm. Ví dụ, Mimi, một cô gái bỏ nhà đi hoang từ năm 17 tuổi, lại khá am tường văn học, có kiến thức về những tác giả, tác phẩm thuộc loại “khó nhai” như Mrs. Dalloway (tiểu thuyết của Virginia Woolf), Salomé (kịch của Oscar Wilde) mà vào thời điểm thực tế khi tác phẩm này được viết vẫn chưa có các bản dịch tiếng Việt. Hay trường hợp nhân vật “Tôi”, một cô bé mê và đọc những tác giả khó nhai không kém, chẳng hạn Dostoiersky từ năm 12 tuổi. Dù việc lý giải đối với trường hợp này khả dĩ hơn. Nhưng bạn đọc ấy sẽ rộng lượng và sẵn lòng bỏ qua những chi tiết ấy, khi cảm nhận được rằng câu chuyện này là câu chuyện của những giấc mơ.
Trong tác phẩm này, các nhân vật dường như chỉ là những cái bóng của những con người thật. Không gian, và đôi khi, thời gian, cũng trở nên mơ hồ như một tấm kính nhòa hơi nước. Vì vậy, thật sự rất khó xác định cụ thể bút pháp của tiểu thuyết này.
Dù sao, tôi rất muốn gọi đó là thủ pháp “dòng giấc mơ” (stream of dreaming), và tưởng tượng biết đâu chừng sau này có một vài nhà phê bình, khi nhận định về Đung đưa trên những đám mây, sẽ gọi thủ pháp của tác giả bằng chính cái tên này. Nhưng thôi, công việc gọi tên thủ pháp tốt nhất nên dành cho thời gian, và những nhà phê bình có kiến thức chuyên sâu.
Chỉ có điều này là tôi dám chắc: tác giả đã lao tâm khổ tứ không ít trong quá trình xây dựng tác phẩm vì chủ đề khá rộng, đòi hỏi một mức độ tri thức khá thâm sâu, và quan trọng hơn nữa, niềm cảm thông sâu sắc. Có những câu, những đoạn cứ như rứt ruột ra mà viết, cứ như tác giả cũng chính là nhân vật, hoặc đã thật sự hóa thân thành nhân vật, trong quá trình sáng tác. Diễn biến tâm lý của nhân vật rất thật, dù mọi chuyện, như trên đã nói, cứ như những giấc mơ liên miên trôi chảy từ trang đầu tới trang cuối sách.
Trong những giấc mơ ấy có khá nhiều nhân vật với mọi tính cách con người đa dạng, đủ để hình thành một xã hội nhỏ bé, tuy nhiên cũng điển hình cho toàn xã hội trong nước hiện tại, nói rộng hơn là toàn cõi thế. Nhưng hai nhân vật được tác giả chăm chút nhất, yêu thương nhất, dụng công thể hiện nhất là hai cô gái: Mini, một nữ diễn viên điện ảnh; và “Tôi”, một cô bé mười ba tuổi khi câu chuyện bắt đầu, và một cô gái vừa tròn hai mươi tuổi vào cuối truyện.
MIMI
Nhân vật Mimi lấy từ nguyên mẫu đời thực nào, hay được hư cấu hoàn toàn, điều đó không quan trọng; nhưng chắc chắn những cô gái giống như Mimi không là số ít trong xã hội Việt Nam hiện tại.
Mẹ Mimi tái giá khi cô còn bé, và rồi ngày nọ, một sự cố bi thảm xảy ra: cô bị người cha dượng tước đoạt đời con gái vào sinh nhật thứ mười ba. Sự thật luôn trần trụi, và mọi tô vẽ đều vô ích. Sự thật bi thương này, được tác giả thể hiện một cách chân xác lạ lùng, quá đủ để người đọc cảm nhận được nỗi đau của nạn nhân, như ở mục trích dẫn “Những nỗi đau thầm kín” bên trên.
Mimi là một cô gái có cá tính phức tạp, vừa mạnh mẽ trong lý trí vừa yếu đuối trong tình cảm. Cô rời khỏi nhà, sống lang thang lưu lạc từ năm mười bảy tuổi. Tình cờ, một đạo diễn nhận ra tố chất nghệ sĩ của cô, và bồi đắp cô thành một nữ diễn viên tên tuổi. Cô thành công trong sự nghiệp, dù dửng dưng với chính sự nghiệp đó. Một ngày tình yêu đến, rồi nó lại ra đi.
Kết thúc dành cho Mimi là cái chết - một kết thúc rất buồn - nhưng có lẽ đối với cô, đó là sự giải thoát, là ân sủng cuối cùng của cuộc đời dành cho cô, một hồng nhan bạc mệnh.
“TÔI”
“Tôi” là một cô gái khác thường. “Tôi” trong Đung đưa giữa những đám mây như một con lắc cứ chao động giữa đôi bờ hư-thực.
Một bé gái mới 12 tuổi nhưng chỉ mê đọc những tác phẩm kinh điển. Rất say mê nhân vật Lâm Đại ngọc trong tiểu thuyết Hồng Lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Nhất quyết sẽ trở thành một nhà văn. Yêu một cô gái lớn tuổi hơn (Mimi).
Gia đình em là một gia đình tan vỡ từ lâu, chỉ còn hình thức. Mẹ em ngoại tình với một người đàn ông, ba em thường xuyên đi vắng. Và nếu căn nhà có cả cha lẫn mẹ, nó biến thành một bãi chiến trường. Những ẩn ức, buồn phiền, sợ hãi và cảm giác không thể hiểu, cảm giác bất lực, cảm giác chán ghét ấy, có lẽ đã biến em thành một cô bé kỳ lạ. Em bắt đầu chạy trốn thực tại, tìm nơi ẩn náu trong những trang sách, trong những giấc mơ.
Em từng bị xâm hại tình dục. Ký ức về sự cố đó là một vết thương, không rõ rệt, nhưng mãi mãi là một vết thương không kín miệng. Có phải chính vì thế mà trong em đã hình thành một tình yêu lệch lạc, nghĩa là yêu một người cùng giới tính?
Trong sinh hoạt bình thường, em luôn có cảm giác một kẻ xa lạ, một kẻ ngoài lề, lạc lối.
Còn có rất nhiều điều về “Tôi”. Em đã trưởng thành ra sao? Em có thoát khỏi cơn mê tăm tối, rối rắm đầy hoảng loạn đó, và chỉ còn những giấc mơ đẹp đẽ? Trích dẫn là một khả năng vô cùng hạn chế, vì vậy, rất mong bạn đọc tìm thấy thêm nhiều yếu tố về nhân vật này ngay trong tác phẩm.
Nhiều nhân vật khác cũng rất đáng chú ý, như Sói, Hổ, Chi, ba mẹ của “Tôi”. Tất cả tập hợp, xoay quanh hai nhân vật chính của chúng ta, đại diện và hình thành nên một phần tử trong xã hội lớn Việt Nam.
*
Nguyễn Hoàng Mai hoàn thành Đung đưa trên những đám mây năm 21 tuổi, khi còn là sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Đây là bước đầu tiên trên con đường văn học cam go gian khổ, có thể sau tác phẩm này Nguyễn Hoàng Mai không viết được gì hay hơn nữa; cũng có thể đây là cột mốc để từ đó cô vươn lên những tầm cao mới.
N.T.N
(TCSH353/07-2018)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.