NGUYỄN HÀNG TÌNH
Cho dù không đến Tây Nguyên ta cũng thấy hoặc “cảm” về miền Thượng phương nam sống động nhiều rồi qua báo chí, truyền hình, văn chương. Nhạc về xứ này cũng thế, qua Y Phôn, Y Moan, Nguyễn Cường. Với nhiếp ảnh, thì càng bạt ngàn hơn tác phẩm và tác giả, không chỉ người đang sinh sống tại xứ này. Thế còn hội họa? Cần một sự tĩnh lặng của hội họa để nhìn thấu vào bên trong miền đất ấy, bởi đây vốn không phải vùng đất của sự ồn ào, lắm lời. Cây cọ nào đầy đủ nội lực cùng sự yêu thương chân thành cho một vùng đất để kể câu chuyện của nó qua sắc màu?
Họa sĩ Lê Vấn
Tây Nguyên trong bạn là vùng đất lụa là quý báu với đại ngàn xanh mênh mông; là núi non hùng vĩ điệp trùng; là nhà sàn, là người bản địa đóng khố, gùi thổ sản, là tiếng cồng chiêng, đàn T’rưng, cây nêu, lễ hội, rượu cần, tượng nhà mồ huyền bí; là cà phê, cao su, tiêu, là đất bazan, là thác nước ầm ào tinh khôi… Bạn đã quen với thứ Tây Nguyên ấy trên báo chí, truyền hình suốt bao năm nay, đến độ bạn không muốn nhìn Tây Nguyên kiểu khác, ít ra như nó đang diễn ra, như “cuộc đời” thật của nó. Nói về “Tây Nguyên” là phải nói về vùng đất huyền bí đẹp. Bất cứ cuộc triển lãm tranh, ảnh nào về Tây Nguyên bạn đều nhận ra cái quán tính cảm thức đó. Chưa hẳn những nghệ sĩ kia vì đọc các nhà Tây Nguyên học kinh điển như Henri Maitre, Comdominas, Dambo, Cassaigne, Jean Boulbet… mà “phê thuốc”, chịu quy phục, ảnh hưởng; mà có thể bản thân họ tự “cài đặt” mình theo tâm lý đám đông.
Lê Vấn là một họa sĩ gần như duy nhất ở Tây Nguyên lội ngược dòng, thoát ra cảm thức đám đông ấy. Nếu bây giờ Lê Vấn mới “thoát” ra khỏi đám đông kia thì không có gì để nói, mà suốt ba mươi năm nay anh đã thế. Anh an nhiên bước đi, sống, vung cọ, như không để ý xung quanh đang có bao người cũng đang vẽ. Anh vẽ bằng sự chỉ huy của rung động nơi mình, cái tôi nghiêm cẩn, đạo lý tự nhận ra, mà hoàn toàn không có bóng dáng của cái “chúng ta”, hay sự hô hào nào. Hay nói khác, anh vẽ cho chính mình, trước những gì diễn ra trên vùng đất mình đang có mặt. Một con chim Phí “nhập cư” tử tế bay trên thảo nguyên sắc màu.
![]() |
Bức Người về cuối rừng |
Hẳn bạn sẽ ngạc nhiên, rằng tại sao “lỗ” cà phê giăng khắp trong tranh Lê Vấn. Về mặt vật chất, nghĩa trần trụi, “lỗ” cà phê nó là một thứ gì đó trái khoáy, phá bĩnh và có “quyền lực” kinh tế, chính nó làm biến động cả Tây Nguyên suốt mấy chục năm qua. Và nó đã ám ảnh Lê Vấn - một nghệ sĩ, kẻ sống bằng tâm hồn. Là kẻ viết báo và nghiên cứu về môi trường, tôi nắm được sự cụ thể của những con số, ví như diện tích rừng tự nhiên hiện còn ở Tây Nguyên bằng diện tích xâm phá dọn sạch trong mười lăm năm từ 1980 - 1995: 1,8 triệu hécta. Hoặc hiện mỗi năm đều đặn mất tiếp trong số ít ỏi còn lại kia 20.000 - 25.000 hécta. Rừng tự nhiên dĩ nhiên chỉ còn trong các cứ điểm cuối cùng là rừng đặc dụng, phòng hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, Vườn quốc gia, chứ không phải bất kỳ đâu như đã từng ở xứ này. Tất nhiên, một nghệ sĩ người ta nhìn xuyên xã hội bằng trực giác nhạy cảm của họ, có thể đạt đến độ khái quát tinh tế, nên 500.000 hécta cà phê hay hơn hai triệu hécta cây trồng khác là cái gì đó không cần thiết. Dân tại chỗ lơi biệt dần cây lúa rẫy đến quyết liệt tìm chỗ dựa ở cây công nghiệp cà phê. Dân nhập cư ùn ùn theo tiếng gọi của cà phê mà tràn lên Tây Nguyên khiến vùng sơn nguyên từ một triệu dân thoắt cái lên trên 6 triệu. Di dân theo chủ trương kế hoạch hay tự do thì cũng là di dân. Nhưng “Lỗ” cà phê và cơn cuồng say đổi đời từ nó làm đau đớn và tê dại cơ thể vốn thanh khiết tự nhiên của Tây Nguyên. Tây Nguyên bị “lột trần” ra như nhộng. Đã bị trần truồng nhưng mọi người vẫn cứ vỗ về nhau nó đang là sơn nguyên, mọi thứ ở đây vẫn “huyền thoại”. Tôi nhận ra những thảm họa môi trường từ sự biến động khủng khiếp của núi rừng miền thượng, còn Lê Vấn với tâm hồn nghệ sĩ, anh cảm nhận xa tít về một sư hoang mang, hoảng loạn trong lòng người. Dân bản địa thì ngỡ ngàng, còn dân nhập cư lại chông chênh. Một nhóm người di cư thất thểu ngồi nhìn lên đồi núi đỏ lòm dù là chốn mưu sinh mới nay mai trong bức Non nước lạ lùng là một ví dụ về điều ấy. Phận người nhập cư đi khai phá đất thiêng của xứ người trong sự tả tơi cái nghèo từ cố quận, cho dù đất bazan có màu mỡ đến cỡ nào thì kiếp người trong hành trình kiếm ăn và tồn tại ấy vẫn chua xót (tác phẩm Cơn mưa đang đến). Những căn nhà nhập cư cô quạnh của dân nhập cư hòa khúc nhạc buồn bã của những làng bản địa đang tan dần cấu trúc xã hội và văn hóa (tác phẩm Trắc trở Tây Nguyên). Cái “lỗ” cà phê ấy nếu không làm rỉ máu bazan thì cũng làm tím tái những dãy núi ngọn đồi, con sông dòng suối (bức Đất đỏ”). Cộng đồng bản địa đi Cắt lúa trên nguồn mà như đi cắt chân tay, nguồn cội của mình. Những cuộc dời làng, tái định canh định cư đó đây khiến người đứt ruột đoạn tuyệt quê xứ, lòng người đổ nát như Mơ qua buôn cũ. Còn kẻ nhập cư thì mang theo bộ cốt văn hóa của mình và chơi vơi mượn lấy nó để tự mưu cầu làm ấm lại thân phận trên đất khách khi mùa sương giá về (tác phẩm Chợ rằm giữa rừng). Những anh chàng nhập cư đào hố để trồng cà phê mà không biết đúng sai về mặt đạo lý với trời đất. Con người chới với mà thiên nhiên cũng bấn loạn khi mọi thứ trên mặt đất bị lộ rõ, nháo nhào, kể chi con sông dòng suối, vạn vật. Lúc đó, bạn chơi vơi trong thứ kinh trời đất về sự thuận hòa phải có giữa con người với thiên nhiên - ở đầu non mà cũng thôi hiểu nổi nguồn (tác phẩm Người ở đầu non). Chất liệu trần gian như thế, hẳn phải vẽ những bức tranh về tình cảnh con người từng gắn bó với rừng một ngày về bên hồn ma của rừng với khẩu trang bịt ngút mặt mà ngậm ngùi nhìn sự rạn vỡ của núi đồi (tác phẩm Người về cuối rừng). Cá bơi trên sông mà còn hoảng loạn, vì nó cũng mất phương khi dòng nước kia cũng biến thiên (tác phẩm Đầu nguồn). Thế thì cũng không khó hiểu khi những cô gái sơn cước Ê Đê thuần khiết thiên nhiên, vô nhiễm tuyệt đối trước son phấn phù hoa bỗng một ngày thể hiện sự tồn tại của mình bằng những thứ gì được cho là tân thời không thua ai (tác phẩm Móng tay son). Tất nhiên những sơn nữ này cũng không biết mình là ai, có là chính mình, người của truyền thống bản địa. Tương lai là cái gì đó không biết được, mà con người còn phải sống cái đã. Như anh nói, họ, tất cả là những nhân vật chỉ có số phận mà không có lai lịch. Họ như nhau, cũng tợ rớt cái đùng xuống Tây Nguyên, cõi trần này, thế thôi.
![]() |
Bức Người nơi đầu nguồn |
Lê Vấn thương yêu con người, dù bản địa hay di dân. Tranh của Lê Vấn là câu chuyện về số phận con người trong hành trình triệt phá thiên nhiên gốc, hạnh phúc là đó mà tự đày đọa mình đó, trừng phạt mình ngay lúc này, kiếp này, thời đại này. Thế nên anh bảo mọi thứ ở Tây Nguyên đều từ rừng, mà mất rừng là mất điểm tựa cốt tử. Con người tự hành hạ mình trong cuộc moi móc, đào bới rừng núi, ngược đãi và nâng niu đất đai đó. Nghệ thuật của Lê Vấn không bị chi phối bởi truyền thống văn hóa, hay di sản quá khứ bất kỳ nào. Cây cọ là công cụ để đưa tâm hồn anh xuyên qua thực tại, hồn nhiên, tỉnh bơ, mà thâm hậu.
Lê Vấn sống trầm lặng, ồn ào đã không mà “trình diễn” hẳn là thứ sinh hoạt xa lạ. Người tinh tế như tranh. Đời Lê Vấn hình như là một cuộc ân nợ với với xứ thượng, mà anh là “khách”. Từ làng dệt Duy Xuyên - Quảng Nam trôi vào làng dệt ngã tư Bảy Hiền ở TP. HCM, dạt lên Lâm Đồng, trở lại TP. HCM, dạt qua Dak Lak, quay lại Quảng Nam, dạt lên lại Dak Lak, ra Huế, rồi lại Dak Lak. Lê Vấn bỏ cơ quan Nhà nước để làm họa sĩ tự do từ rất sớm, chỉ sau chừng mười năm trong “quốc doanh”. Anh suýt đi đào “lỗ” cà phê ở Gia Lành (Di Linh, Lâm Đồng) như bao di dân khác, vào cái mùa bão tố “Đi Kinh tế mới” sau 1975 ấy quét qua gia đình anh khi đang sống ở Sài Gòn. Con đường hội họa đã dẫn anh vào trường mỹ thuật rồi thành họa sĩ chuyên nghiệp. Sống ở Buôn Ma Thuột hơn 30 năm, nhà cửa ổn định, miệt mài hội họa dấn thân, nhưng anh vẫn như luôn ở trạng thái của một kẻ di dân. Anh không biến cốt thành “người bản địa” để dễ “thành công”, nhận biệt đãi và “hòa nhập”. Tôi kể chuyện miền thượng bằng tâm thế của chính tôi, kẻ ngụ cư đích thực, “khách sĩ”. Cái cảm giác ấy khiến tranh của anh mang phẩm chất giang hồ lưu lạc và chân thành với cuộc đời. Bao giờ xem tranh anh, tôi vẫn thấy thứ nợ kia nó đeo bám cuộc đời lẫn không gian sáng tạo của Lê Vấn. Nhờ kiếp nợ riêng của anh mà cao nguyên đương thời hiện ra thật thà, điềm tĩnh, bao dung và sâu lắng trong miền mơ tưởng của hội họa.
Lê Vấn chỉ vẽ trên lụa. Họa sĩ chuyên nghiệp. Tất nhiên là tay chơi “lụa” hàng đầu Tây Nguyên bây giờ, giữa một Tây Nguyên chưa bao giờ hội họa được dân mỹ thuật trong nước “nể trọng”.
N.H.T
(SDB13/06-14)
TUỆ NGỌC
Lê Anh Hoài là người thực hành nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực như văn học, hội họa, trình diễn...
TUỆ NGỌC
TUỆ NGỌC
LÊ HUỲNH LÂM
"Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được."(Paul Klee)
LÊ HUỲNH LÂM
Tánh nước vốn vô hình và mềm mại. Nhưng nước lại có quyền năng biến hiện và tùy duyên hóa thân thành mọi vật, có khi là đám mây, khi là cơn mưa, có khi làm ngọn sóng cao vút nhấn chìm mọi vật, có lúc là những đợt sóng êm đềm, là dòng sông, con suối, là thác ghềnh, là biển cả bao la,... lại có khi là giọt lệ trên khóe mắt con người. Tuy nước rất mềm mại nhưng sức mạnh của nước có thể xô ngã mọi tượng đài tưởng chừng là thường hằng ở mặt đất này.
LÊ HUỲNH LÂM
Sản phẩm từ cái khuôn mẫu đầu tiên đã đặt định con người trong thế bị động, và từ khởi thủy đầy hư cấu và huyền thoại đó bao nhiêu trí tưởng tượng đã được tạo dựng, việc chế tác một khuôn mẫu mới cho con người đã được đề cập đến nhiều lần.
Nhiều điều bí ẩn giấu đằng sau những chi tiết có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong bức tranh "Susanna and the Elders" (Susanna và các Trưởng lão) của họa sỹ nổi tiếng thế giới người Hà Lan Rembrandt van Rijn vừa được công bố trên tạp chí Khoa học Vật liệu và Chế tạo số ra mới đây.
Các tác phẩm chọn lọc của thế hệ các nghệ sỹ trẻ Đức sẽ được quy tụ và giới thiệu đến công chúng thủ đô Hà Nội trong không gian triển lãm “Hội họa mới từ Đức,” khai mạc vào 17 giờ ngày 14/05 và trưng bày tới hết ngày 31/05, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 Nguyễn Thái Học.
LTS: Họa sĩ Lê Bá Đảng sinh ngày 27/6/1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông đã ra đi vào ngày 7/3 tại Thủ đô Paris nước Pháp, để lại dự án dang dở đáng tiếc về “một bức tranh rất lớn nằm ngửa trên mặt đất”, ước mong góp phần cho Huế trở nên một Kinh đô Mỹ thuật.
Sông Hương giới thiệu “lời chia buồn sâu sắc” đọc trong Lễ tưởng niệm họa sĩ Lê Bá Đảng của tỉnh Thừa thiên Huế vào chiều 9/3 tại Trung tâm Nghệ thuật mang tên ông.
Đối với họa sĩ, để đi đến trừu tượng hay trạng thái “không gì cả”, anh ta đã phải cần đến rất nhiều thứ.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Van Gogh của David Haziot, Phan Hồng Hạnh chuyển ngữ, Nxb. Đà Nẵng, 2014)
...Nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa ảo giác (illusionist) đều xem nhẹ phương tiện, chúng dùng nghệ thuật để che giấu nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện đại lại dùng nghệ thuật để thu hút sự chú ý vào nghệ thuật.
“Từ mô phỏng đến phá hủy tự nhiên”: đây hoàn toàn có thể là nhan đề của một lịch sử nghệ thuật phương Tây. Một trong những nghệ sĩ hiện đại quan trọng nhất, và cũng có lẽ hiền minh nhất, Picasso, có nói: nếu chúng ta không thể thoát khỏi tự nhiên, như một số nghệ sĩ tiền bối và đương thời với ông đang cố gắng một cách vô ích, thì ít nhất chúng ta có thể làm biến dạng nó, phá hủy nó. Về cơ bản, đó chính là một hình thức mới của lòng sùng kính tự nhiên...
Năm mới là thời điểm của những tiệc tùng liên miên. Hội họa từ lâu đã rất quan tâm tới chủ đề này. Hãy cùng nhìn lại những bữa tiệc linh đình, nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, từ chỉ “nghệ thuật” là techne, chính là nguồn gốc của các từ technique (kĩ thuật) và technology (công nghệ) - những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong cả ngành khoa học và nghệ thuật. Nhìn vào hội họa thế kỷ 19, ta nhận thấy các họa sĩ thực sự là những kỹ sư ánh sáng và màu sắc tài tình.
Một ngày nọ, khi vẽ một thiếu nữ, tôi chợt nhận ra điểm duy nhất sống động ấy là ánh nhìn như bất động của nàng. Những thứ còn lại có ý nghĩa không hơn gì cái sọ người. Người ta luôn muốn tạc nên một con người sống, nhưng điều khiến pho tượng ấy có sự sống chỉ có thể là ánh nhìn của người đó.
Các nghệ sĩ nữ thường là bộ phận ngoại vi trong những mô tả về tiến trình lịch sử, không chỉ của hội họa mà còn của nhiều loại hình nghệ thuật khác. Nhưng thực sự chính từ những nghệ sĩ nữ, những ý tưởng nghệ thuật táo báo, đột phá nhất, gây ảnh hưởng lớn thường được khai sinh. Ba nghệ sĩ nữ được giới thiệu trong chùm bài viết này đã cho thấy sự trực cảm, tinh nhạy và quyết liệt ở họ đã mở ra những cách tiếp cận nghệ thuật bất ngờ và giàu sức sống cho đến tận bây giờ.
Sau nhiều thập niên tồn tại vô danh, La Bella Principessa đang trải nhiều công đoạn đánh giá phức tạp nhằm xác định liệu nó là tác phẩm mất tích của Leonardo da Vinci hay chỉ là kẻ mạo danh.
Vào những năm 1970, bức tranh sơn dầu (về sau được gọi tên là Bình văn) được tìm thấy trong ngôi nhà của một người dân ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Bức tranh được cho là do Lê Văn Miến (Lê Huy Miến), họa sĩ Tây học đầu tiên người VN, vẽ nên nhưng một số phát hiện vừa qua lại dấy lên giả thiết mới.
Tôi quen với họa sĩ trẻ Nguyễn Văn Hè từ những năm anh còn là sinh viên trường Đại học Nghệ thuật Huế. Cà phê vỉa hè ở đường Phạm Hồng Thái là nơi chúng tôi thường gặp gỡ chuyện trò vào những chiều cuối tuần. Hè có một đời sống nội tâm hết sức mạnh mẽ nhưng ứng xử vô cùng nhẹ nhàng và kín đáo.