Ý nghĩa của ca, ngâm, hành, từ, khúc trong nhan đề thơ cổ

11:15 04/08/2008
TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).

Và danh từ trung tâm biểu thị (ấy là) bài hát, lời ca (về...) (như: Long Thành cầm giả ca - Nguyễn Du, Cung oán ngâm - Nguyễn Gia Thiều, Dương phụ hành - Cao Bá Quát, Hoán tỉnh châu dân từ - khuyết danh, Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ,...). Có thể do cùng cách cấu trúc hoặc ranh giới giữa một số thể loại với ca, ngâm, hành, từ, khúc trong nhan đề thơ văn cổ chưa phân định, nên đã có sự nhầm lẫn, hoặc cho tất cả đều thuộc thể loại, hoặc chú thích nghĩa nhóm sau thiếu chính xác. Bài này viết tách ca, ngâm, hành, từ, khúc ra để xem xét, vừa nhằm để hiểu các từ này, đồng thời, cũng là một mặt của vấn đề, sẽ giúp nhận diện mặt thể loại dễ dàng hơn.
 2.1. Ca, ngâm, hành, từ, khúc (trong nhan đề tác phẩm) được sử dụng phổ biến trong văn học cổ Trung Quốc và Việt Nam (riêng , người Việt ít dùng hơn); và chỉ sử dụng trong lĩnh vực thơ ca. Sách Hán Việt từ điển (Đào Duy Anh; Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1994) đã định nghĩa: ca: "bài hát" (tr.77-
I); ngâm: "đọc tiếng dài" (tr. 21-II); từ: "một thể văn Tàu" (tr. 333-II); khúc: "một bài hát" (470-I). Sách Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản khoa học xã hội - Trung tâm từ điển học, 1994), định nghĩa: ca: "bài văn vần ngắn, thường dùng để hát hoặc ngâm" (tr. 93); từ: "thể thơ, thường dùng làm lời cho các khúc nhạc, không hạn định số chữ số câu, câu ngắn xen lẫn với câu dài tùy theo tiết tấu, và vần thường ở cuối câu" (tr. 1035). Sách Thơ Đường (nhiều người dịch, 2 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1987) định nghĩa hành: "tên một điệu ca khúc thời xưa" (tr. 69-I). Sách Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (Viện nghiên cứu Hán Nôm, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1982) định nghĩ hành: "một thể thơ nhạc phủ trong cổ phong biến ra, như bài Cổ bách hành của Đỗ Phủ, hay bài Tràng Can hành của Lý Bạch" (tr. 60).
 Dù khi dùng ca, ngâm, hành, từ, khúc để đặt tên tác phẩm, ý nghĩa có thể biến đổi so với các kết hợp khác của chúng, những cách hiểu vừa nêu có chỗ không phù hợp lắm khi dịch nhan đề. Cách dịch phổ biến là bài hát (hành, ca); khúc hát (khúc); khúc ngâm (ngâm); bài thơ, bài hát, lời ca, lời (từ); Ví dụ: Lũng Tây hành "Bài hát Lũng Tây" (Trần Đào); Long Thành cầm giả ca: "Bài ca về người đánh cầm ở Long Thành" (Nguyễn Du), Bạch đầu ngâm: "Khúc ngâm đầu bạc" (Lý Bạch), Hậu cung từ: "Lời trong hậu cung" (Bạch Cư Dị),... Trần Trọng Kim ở tập sách Đường thi (Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1950) đã dịch nhan đề của 33 bài có ca, ngâm, hành, từ, khúc là "bài (khúc) hát", chỉ có 2/7 bài từ là dịch hơi khác (Oán từ: "Lời oán giận", Diễm nữ từ: "Lời ca người đẹp"). Các dịch giả sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn học, 1988), đã giữ nguyên, không chuyển hành thành "bài hát" như ở Thơ ĐườngĐường thi, cả bốn bài trong tập sách (ví dụ: Sở kiến hành: "Bài hành về những điều trông thấy";...). Cũng bài Sở kiến hành này, sách Hợp tuyển thơ văn Việt (thế kỷ 18 - nửa đầu thế kỷ 19) (Huỳnh Lí chủ biên; Nhà xuất bản Văn học, 1987) dịch là "Những điều trông thấy"...
 2.2. Để tìm hiểu ý nghĩa của ca, ngâm, hành, từ, khúc trong nhan đề thơ cổ, người viết phối hợp cả hai tập sách Đường thi (sách này giới thiệu 336 bài) và Thơ Đường (hai tập của sách này giới thiệu 256 bài) đã dẫn, để chọn ra 57 bài có cấu trúc nhan đề chứa chúng như đã nêu, rồi xem xét phạm vi của đối tượng được đề cập là chung hay riêng, đặc điểm của đối tượng được đề cập là quen thuộc hay mới lạ, tâm trạng của chủ thể trữ tình là hào sảng hay sầu thương và cách thể hiện là kể hay tả; đồng thời, cũng xét mặt thể thơ được sử dụng. Sở dĩ chọn thơ Đường để xem xét, vì 2 lí do:
 1. Ca, ngâm, hành, từ, khúc xuất phát từ văn chương Trung Quốc cổ, mà thơ Đường có mức thể hiện đáng chú ý.
 2. Thơ Đường có ảnh hưởng lớn đối với các nhà thơ Việt xưa. Kết quả của việc làm này được nêu ở bảng sau:

CÁC
BIỂU
 HIÊN
 
 VB
 
 NHAN
 ĐỀ

 

PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC ĐỀ CẬP

 

ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC ĐỀ CẬP

 

TÂM TRẠNG CHỦ THỂ TRỮ TÌNH

 

CÁCH THỂ HIÊN

 

THỂ THƠ

 

CHUNG

 

RIÊNG

 

+

 

QUEN

 

LẠ

 

+

 

HÀO SẢNG

 

SẦU THƯƠNG

 

+

 

KỂ

 

TẢ

 

+

 

CỔ PHONG

 

NGŨ NGÔN BÁT CÚ

 

NGŨ NGÔN TỨ TUYÊT

 

THẤT NGÔN TỨ TUYÊT

 

CA (13 BÀI)

 

8

 

4

 

1

 

7

 

6

 

0

 

7

 

5

 

1

 

9

 

3

 

1

 

9

 

0

 

3

 

1

 

NGÂM (4 BÀI)

 

0

 

4

 

0

 

3

 

1

 

0

 

1

 

2

 

1

 

1

 

0

 

3

 

4

 

0

 

0

 

0

 

HÀNH (17 BÀI)

 

12

 

5

 

0

 

6

 

11

 

0

 

5

 

4

 

8

 

10

 

4

 

3

 

10

 

1

 

3

 

3

 

TỪ (15 BÀI)

 

9

 

6

 

0

 

15

 

0

 

0

 

8

 

5

 

2

 

5

 

7

 

3

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRIỀU NGUYÊN  Từ ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác.

  • PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.

  • TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu                                                (Ca dao)

  • VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.

  • TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.

  • PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).

  • TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.

  • NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.

  • TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.

  • TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…

  • TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.

  • TRIỀU NGUYÊN           Chùm Truyện ngụ ngôn

  • HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.